
Tái cấu trúc sản phẩm làng nghề gỗ - Hướng đến xuất khẩu giá trị gia tăng, cải thiện biên lợi nhuận.
Tại hội nghị cuối tuần qua ở làng nghề La Xuyên, Yên Ninh, Ý Yên, Nam Định, đại diện 10 làng nghề mộc hàng đầu miền Bắc đã thảo luận về các chiến lược duy trì và phát triển trong bối cảnh kinh tế vĩ mô đầy thách thức.
Thách thức tiếp cận thị trường toàn cầu: Nguyên nhân cốt lõi
Ông Ninh Xuân Phong, Bí thư Đảng ủy xã Yên Ninh, nhấn mạnh rằng, mặc dù La Xuyên và Ninh Xá nổi tiếng với các sản phẩm chạm khắc tinh xảo như sập gụ và tủ chè, song lại đối mặt với tình trạng hàng tồn kho gia tăng và dòng tiền bị đình trệ. Rào cản lớn nhất là khả năng tiếp cận thị trường tiêu thụ, cản trở việc mở rộng quy mô sản xuất.
Ông Phạm Ngọc Tuấn, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp La Xuyên, lưu ý rằng, dù sở hữu lịch sử lâu đời gần 1000 năm, La Xuyên vẫn chưa thể hiện được sự linh hoạt và khả năng thích ứng nhanh nhạy như làng nghề Đồng Kỵ (Bắc Ninh). Trong khi Đồng Kỵ đã chủ động chuyển dịch sang các sản phẩm hiện đại, sử dụng gỗ rừng trồng (gỗ sồi, óc chó, tần bì) và ván nhân tạo để giảm chi phí và đáp ứng thị hiếu, La Xuyên vẫn duy trì các mẫu mã truyền thống và phương thức sản xuất thủ công.
Theo ông Phong, “Cho đến nay, chưa có doanh nghiệp nào trên địa bàn xã Yên Ninh tiếp cận được thị trường quốc tế, sản phẩm chủ yếu phục vụ thị trường nội địa.”
Ông Tuấn nhận xét, “Các hộ ở La Xuyên vẫn trung thành với mẫu mã sản phẩm quen thuộc và lối sản xuất tiểu thủ công nghiệp từ xưa, nên dù sản phẩm được chế tác tinh xảo, giá thành cạnh tranh nhưng vẫn ngày càng kén người dùng hơn.” Ông cho rằng, chính di sản và danh tiếng lâu đời lại trở thành rào cản trong việc thích nghi với sự thay đổi của thị trường. Giải pháp là “mặc áo mới” cho sản phẩm và chuyển đổi nguồn nguyên liệu gỗ.
Đại diện Công ty Cổ phần Lâm sản Nam Định (NAFOCO) cho biết, NAFOCO sử dụng 100% gỗ rừng trồng (keo, bạch đàn, cao su), trong khi các làng nghề thường sử dụng gỗ nguyên liệu đắt gấp nhiều lần. Quy trình chế biến gỗ tại các làng nghề cũng lãng phí và gây ô nhiễm do không tận dụng được phế phẩm, tiêu tốn vật tư, phụ liệu, công lao động, thiếu trang thiết bị tiêu chuẩn, ảnh hưởng đến sức khỏe người lao động và cộng đồng.
Sự e ngại về đầu ra và chi phí đầu tư ban đầu vào máy móc, lò sấy gỗ khiến nhiều hộ tiếp tục mô hình sản xuất thâm dụng nguyên liệu và nhân công, dù đầu ra không ổn định. Cần sự hỗ trợ từ chính quyền, hiệp hội và doanh nghiệp để kết nối và tạo động lực chuyển đổi.
Chuyển đổi thiết kế mẫu mã theo nhu cầu thị trường
Trong bối cảnh thị trường quốc tế biến động, các hộ còn đối mặt với khó khăn về nguồn gỗ đầu vào. Gỗ tròn và gỗ xẻ nhập khẩu từ Lào và châu Phi (nguồn nguyên liệu chính của nhiều làng nghề) tiềm ẩn rủi ro về nguồn gốc và tính hợp pháp, ảnh hưởng đến uy tín khi người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến tính bền vững của sản phẩm.
Anh Nguyễn Phúc Điệp, hộ sản xuất tại Vạn Điểm (Hà Nội), nhận thấy xu hướng chuyển dịch của thị trường từ hơn 10 năm trước. Khách hàng trẻ tuổi ưa chuộng thiết kế hiện đại, sáng tạo, kết hợp nhiều vật liệu.
Anh Điệp cho rằng, “Khác biệt về thẩm mỹ và tư duy tiêu dùng khiến các sản phẩm gỗ quý bền bỉ nhưng nặng nề, khó kết hợp với nội thất hiện đại trở nên kém hấp dẫn và mất đi giá trị vốn có. Mặt khác, những tranh cãi về nguồn gốc gỗ và tác động của việc phá rừng tự nhiên cũng khiến các sản phẩm sử dụng gỗ tự nhiên của làng nghề gắn liền với hình ảnh tiêu cực, lạc hậu trong mắt người tiêu dùng.”
Xu hướng thiết kế may đo đồng bộ cả nhà và nội thất mở ra cơ hội tiếp cận khách hàng trẻ thông qua việc hợp tác với các đơn vị thiết kế, thi công. Một số hộ đã sản xuất thử nghiệm các sản phẩm mới bằng gỗ rừng trồng, tìm kiếm khách hàng qua liên kết với công ty hoặc kênh bán hàng trực tuyến.
Anh Điệp nhấn mạnh: “Về lâu dài, cần chuyển đổi mô hình của làng nghề từ sản xuất số lượng lớn, giá rẻ làm thị trường bão hòa như hiện nay sang sản phẩm may đo chú trọng thiết kế theo yêu cầu của khách hàng, sử dụng nguyên liệu mới, thân thiện với môi trường”.
Source: VNECONOMY
This article has been adapted from its original source.