Chính sách Thuế Hoa Kỳ: Việt Nam Tăng Cường Khả Năng Chống Chịu và Tự Chủ Kinh Tế.


Tại hội thảo “Thuế đối ứng của Hoa Kỳ và ứng phó của doanh nghiệp Việt Nam” do VCCI tổ chức (18/4), Chủ tịch VCCI, ông Phạm Tấn Công, đã nhấn mạnh sắc lệnh hành pháp ngày 2/4 của Tổng thống Hoa Kỳ Donald J. Trump về thuế đối ứng, có thể áp mức thuế lên tới 46% đối với hàng nhập khẩu từ Việt Nam. Mặc dù phía Hoa Kỳ tạm hoãn áp thuế trong 90 ngày để đàm phán, rủi ro thuế đối ứng vẫn hiện hữu, tạo thách thức lớn cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, đặc biệt khi Hoa Kỳ chiếm tới 29% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2024.

Theo VCCI, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực sang Hoa Kỳ bao gồm điện tử, dệt may, da giày, gỗ và sản phẩm gỗ, thủy sản, máy móc và thiết bị. Nhiều ngành có tỷ trọng xuất khẩu sang Hoa Kỳ trên 40%, thậm chí vượt 50% (gỗ, dệt may, thiết bị điện tử). Ông Công nhận định việc áp thuế đối ứng sẽ gây tổn thương nặng nề, làm giảm sức cạnh tranh, gián đoạn sản xuất, ảnh hưởng đến việc làm, tăng trưởng GDP và ổn định kinh tế vĩ mô.

Ngoài ra, Việt Nam có thể đối diện với tác động dây chuyền và chuyển hướng thương mại, khi hàng hóa từ các nước bị áp thuế tìm cách thâm nhập thị trường Việt Nam, làm gia tăng cạnh tranh, nguy cơ gian lận thương mại và điều tra chống lẩn tránh thuế.

Tuy nhiên, Chủ tịch VCCI vẫn lạc quan về cơ hội từ thách thức, nhấn mạnh việc tái cấu trúc chiến lược phát triển, nâng cao năng lực nội tại và định vị lại vai trò của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu. TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính – tiền tệ Quốc gia, cũng đồng tình, chỉ ra ba cơ hội: mở rộng xuất khẩu sang Hoa Kỳ (dù hạn chế), xu hướng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng, đa dạng hóa và nâng cao nội lực, đáp ứng các tiêu chuẩn mới.

Trước tình hình trên, Chủ tịch VCCI kiến nghị năm giải pháp:

  1. Đối thoại chiến lược cấp cao với Hoa Kỳ để đạt thỏa thuận song phương, giảm xung đột, minh bạch thông tin, thúc đẩy nhập khẩu từ Hoa Kỳ (LNG, nông sản, công nghệ cao), cân bằng thương mại và tạo niềm tin chính trị.
  2. Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và chuỗi cung ứng thông qua các FTA thế hệ mới (EVFTA, CPTPP, RCEP), mở rộng thị trường tại EU, Canada, Australia, khai thác thị trường tiềm năng (Tây Nam Trung Quốc, Trung Đông, Mỹ Latinh), và phát triển thị trường nội địa.
  3. Tái cấu trúc chuỗi cung ứng và công nghiệp hỗ trợ, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, kiểm soát nguồn gốc xuất xứ, phát triển công nghiệp nền tảng (hóa chất, vật liệu mới, logistics, công nghệ cao) để giảm phụ thuộc nhập khẩu và rủi ro thương mại.
  4. Tham gia chuỗi cung ứng chiến lược của Hoa Kỳ, đầu tư vào các trung tâm kỹ thuật bán dẫn, công nghiệp xanh, năng lượng tái tạo, thay thế vai trò của Trung Quốc trong chuỗi giá trị toàn cầu.
  5. Nâng cao năng lực thể chế và hạ tầng, cải thiện môi trường đầu tư, minh bạch hóa chính sách, nâng cấp nguồn nhân lực và hạ tầng logistics.

Ông Công nhấn mạnh bài học từ năm 1986 và sự sụp đổ của thị trường Đông Âu đầu những năm 1990, khẳng định khả năng ứng phó của doanh nghiệp Việt Nam và sự cần thiết của việc uyển chuyển thích ứng với chính sách thuế mới của Hoa Kỳ để đạt mục tiêu trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2045. Ông cũng đề cập đến “bộ tứ chiến lược” của Đảng: tái cấu trúc, nghị quyết về khoa học công nghệ, cách nhìn mới về kinh tế tư nhân, và hội nhập kinh tế quốc tế.

TS. Lực nhấn mạnh giải pháp đàm phán thành công và giải quyết 24 rào cản mà Hoa Kỳ đã nêu, hỗ trợ các ngành hàng bị ảnh hưởng, và tập trung vào thị trường và doanh nghiệp nội địa. Ông lưu ý doanh nghiệp cần minh bạch hóa nguồn gốc xuất xứ, công khai tỷ lệ nội địa hóa, và tận dụng 17 FTA hiện có.

TS. Lực tin tưởng vào vận hội mới, cải cách quyết liệt, và khả năng của người Việt Nam vượt qua khó khăn, đồng thời kêu gọi không chủ quan, không bi quan, và chuẩn bị tâm thế mới.


Source: VNECONOMY
This article has been adapted from its original source.