Chiến lược FDI chọn lọc, ưu tiên bền vững - Nâng cao hiệu quả thu hút vốn.


Ngày 23/4, Diễn đàn Nhịp cầu Phát triển Việt Nam 2025 (Vietnam Connect Forum 2025), sự kiện phối hợp giữa Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược (thuộc Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương) và Tạp chí Kinh tế Việt Nam, đã diễn ra, đồng thời với Chương trình Rồng Vàng lần thứ 24. Bà Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược, nhấn mạnh năm 2025 là năm bản lề, đánh dấu bước chuyển mình quan trọng của Việt Nam vào một giai đoạn phát triển mới.

FDI – Bốn Thập Kỷ Đồng Hành Cùng Nền Kinh Tế Việt Nam

Bà Minh cho rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã song hành cùng lịch sử phát triển của Việt Nam kể từ khi khởi xướng công cuộc Đổi mới, đóng góp then chốt vào những thành tựu kinh tế, hội nhập quốc tế và phát triển bền vững mà Việt Nam đạt được. Ông Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng ban Chính sách, Chiến lược Trung ương, khẳng định nhất quán trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về FDI kể từ năm 1986, thể hiện qua các kỳ đại hội và nghị quyết chuyên đề của Bộ Chính trị.

Ông Sơn nhấn mạnh: “Chính sách thu hút FDI đã chuyển trọng tâm từ số lượng vốn đăng ký sang chất lượng, hiệu quả, công nghệ và tác động môi trường. Ưu tiên hàng đầu là liên kết FDI với doanh nghiệp trong nước, thúc đẩy chuỗi giá trị, chuyển giao công nghệ, phát triển các cụm ngành công nghiệp, đồng thời tăng cường kiểm soát chuyển giá và các hành vi gian lận đầu tư thông qua luật pháp và công nghệ.”

Phó Trưởng ban Chính sách, Chiến lược Trung ương khẳng định môi trường đầu tư tại Việt Nam đã không ngừng được cải thiện trong gần bốn thập kỷ qua nhờ cải cách hành chính, hoàn thiện pháp luật, nâng cấp cơ sở hạ tầng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nhờ đó, Việt Nam đã trở thành điểm đến hấp dẫn của nhiều tập đoàn đa quốc gia.

Tính đến hết tháng 3/2025, Việt Nam có 42.760 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký vượt quá 510 tỷ USD, vốn thực hiện lũy kế đạt gần 327,5 tỷ USD, tương đương 64,2% tổng vốn đăng ký. Các tập đoàn lớn như Samsung, Intel, Foxconn và Amkor đã và đang đầu tư mạnh mẽ vào Việt Nam. Riêng năm 2024, khu vực FDI đóng góp 16,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, gần 72% tổng kim ngạch xuất khẩu và hơn 20 tỷ USD vào ngân sách nhà nước. Khu vực FDI cũng tạo ra hơn 5 triệu việc làm, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và thu nhập cho người lao động.

Dòng Vốn FDI Trong Thời Đại Mới

Ông Sơn chỉ ra một số hạn chế trong thu hút và sử dụng FDI, bao gồm: quy mô và trình độ công nghệ của các dự án FDI còn hạn chế, thiếu liên kết giữa khu vực FDI và doanh nghiệp trong nước dẫn đến tỷ lệ nội địa hóa thấp, rào cản về thủ tục hành chính và các quy định về môi trường, phòng cháy chữa cháy, thuế… vẫn gây khó khăn cho doanh nghiệp FDI. Thêm vào đó, thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao và cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển cũng là những thách thức đáng kể, bên cạnh tình trạng chuyển giá và gian lận thương mại, đặc biệt là vấn đề “đội lốt, tráng men xuất xứ” sản phẩm.

Trong bối cảnh thế giới đang có nhiều biến động, làm dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu, dòng vốn FDI cũng chuyển dịch theo hướng giảm sự phụ thuộc vào một quốc gia, tăng cường đầu tư vào công nghệ cao, R&D, trí tuệ nhân tạo, các tiêu chuẩn ESG, năng lượng tái tạo và giảm phát thải. An toàn chuỗi cung ứng và ổn định chính trị ngày càng trở thành yếu tố then chốt trong các quyết định đầu tư.

Ông Sơn nhấn mạnh: “Lợi thế cạnh tranh của Việt Nam không chỉ đến từ quy mô thị trường gần 100 triệu dân, tầng lớp trung lưu ngày càng tăng và mức tiêu dùng gia tăng nhanh chóng, mà còn từ mạng lưới 17 hiệp định thương mại tự do, bao gồm nhiều FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA và RCEP. Với độ mở cao, tỷ lệ kim ngạch thương mại trên GDP gần 200%, cùng với cơ sở hạ tầng được nâng cấp, môi trường kinh doanh cải thiện, chính trị ổn định và chính sách ưu đãi hấp dẫn, Việt Nam tiếp tục là điểm đến lý tưởng cho dòng vốn FDI.”

Các nhà đầu tư nước ngoài có cơ hội tiếp cận thị trường rộng lớn, giảm chi phí và rào cản thương mại, kết nối sâu rộng với chuỗi cung ứng toàn cầu, gia tăng hiệu quả kinh doanh và tăng trưởng bền vững trong dài hạn. Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới với khát vọng đạt được các mục tiêu phát triển quan trọng vào năm 2030 và 2045, trong đó trọng tâm là vượt qua nguy cơ tụt hậu và bẫy thu nhập trung bình, đòi hỏi tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 8% vào năm 2025 và phấn đấu đạt hai con số trong giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, mục tiêu này được đặt ra trong bối cảnh thế giới thay đổi nhanh chóng và khó lường, đặc biệt là các điều chỉnh chính sách thuế quan từ Hoa Kỳ.

Để hiện thực hóa các mục tiêu, Việt Nam đang triển khai nhiều giải pháp đột phá, bao gồm cải cách bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị, sắp xếp lại địa giới hành chính, xây dựng chính quyền địa phương hai cấp, nâng cao chất lượng tăng trưởng thông qua phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số (theo Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị), tăng cường hiệu quả hợp tác quốc tế (theo Nghị quyết 59-NQ/TW). Việt Nam cũng đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, xóa bỏ các rào cản, phát triển trung tâm tài chính quốc tế, trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, đơn giản hóa thủ tục hành chính, cắt giảm chi phí kinh doanh và điều kiện kinh doanh không cần thiết.

Những thay đổi chiến lược này đòi hỏi việc định hình lại chính sách thu hút, quản lý và sử dụng vốn FDI. Thay vì thu hút đại trà, Việt Nam đang chuyển sang chiến lược chọn lọc, định hướng vào các dự án có giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường, có tính kết nối chuỗi, trung tâm R&D và công nghiệp nền tảng. Bên cạnh đó, cần thiết lập cơ chế hậu kiểm, đánh giá định kỳ và chế tài thu hồi ưu đãi nếu vi phạm, nhằm nâng cao kỷ cương trong quản lý đầu tư. Đồng thời, cần tăng cường liên kết giữa khu vực FDI với khu vực kinh tế trong nước, phát triển hạ tầng chiến lược, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy đầu tư vào các vùng trọng điểm và siết chặt quản lý để ngăn chặn chuyển giá và gian lận đầu tư.


Source: VNECONOMY
This article has been adapted from its original source.