Nông nghiệp Việt Nam - Năm mươi năm tăng trưởng, Chuyển đổi cơ cấu và Triển vọng tương lai.


Dưới đây là bản viết lại nội dung tin tức tài chính, sử dụng ngôn ngữ và phong cách chuyên nghiệp, phù hợp với độc giả là các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính và kinh doanh tại Việt Nam:

Sự Chuyển Mình Vượt Bậc của Ngành Nông Nghiệp Việt Nam: Từ Nhập Khẩu Lương Thực đến Cường Quốc Xuất Khẩu Nông Sản

Năm 1975, thời điểm thống nhất đất nước, sản lượng lúa toàn quốc chỉ đạt 5,49 triệu tấn, với năng suất khiêm tốn 21,1 tạ/ha. Với dân số 46,5 triệu người, bình quân lương thực đầu người đạt 243,3 kg, trong đó thóc chỉ chiếm 118 kg/người. Do đó, Việt Nam phải nhập khẩu tới 880.000 tấn lương thực quy thóc. Ngành chăn nuôi cũng đối mặt với nhiều thách thức, với tổng sản lượng thịt đạt khoảng 450 nghìn tấn, chủ yếu từ các giống vật nuôi nội địa năng suất thấp.

Hoạt động xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 1976 còn hạn chế về chủng loại và quy mô, với một số mặt hàng như cà phê (8.200 tấn), chè (7.900 tấn), cao su (27.800 tấn) và một số loại trái cây tươi, đóng hộp. Tổng giá trị xuất khẩu toàn ngành chưa đến 100 triệu USD. Trong khi đó, cán cân thương mại lương thực và thực phẩm thâm hụt nghiêm trọng.

Trong 50 năm qua, ngành nông nghiệp Việt Nam đã có bước tiến ngoạn mục, chuyển từ tình trạng thiếu hụt trầm trọng sang đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và đóng góp quan trọng vào an ninh lương thực toàn cầu, trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Việc đảm bảo an ninh lương thực đã tạo tiền đề cho sự chuyển đổi từ độc canh lúa sang phát triển nông nghiệp tương đối toàn diện.

Dấu Ấn 50 Năm Phát Triển

Trong giai đoạn 1976-1981, Việt Nam phải nhập khẩu trên 1 triệu tấn lương thực mỗi năm, tỷ lệ đói nghèo lên đến gần 70%. Nhờ các chủ trương và chính sách đúng đắn về nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp của Việt Nam dần phát huy lợi thế so sánh trong sản xuất nông sản, đặc biệt là lúa gạo, duy trì sự ổn định và đảm bảo nguồn cung lương thực, thực phẩm trong nước.

Theo ông Lê Minh Hoan, “Nhờ chính sách đổi mới và phát triển, Việt Nam thực sự trở thành cường quốc xuất khẩu nông sản.”

Năm 2024, tổng sản lượng lương thực có hạt của Việt Nam đạt 48 triệu tấn, trong đó sản lượng lúa đạt 43,5 triệu tấn và ngô đạt hơn 4,4 triệu tấn, cao gấp gần 9 lần so với năm 1975. Nhờ sự phát triển của sản xuất, ngành nông nghiệp đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của gần 100 triệu dân trong nước. Đồng thời, Việt Nam còn xuất khẩu sang nhiều nước, góp phần đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu.

Đối với cây công nghiệp lâu năm, điểm xuất phát năm 1975 là diện tích và sản lượng rất thấp. Hiện nay, bình quân mỗi năm, Việt Nam sản xuất được: 1,3-1,7 triệu tấn cà phê; 170-200 nghìn tấn hạt tiêu; 360-400 nghìn tấn hạt điều; trên 2,1 triệu tấn trái cây các loại; 1,3-1,5 triệu tấn mủ cao su…

Trong lĩnh vực chăn nuôi, tổng sản lượng thịt các loại năm 2024 đạt 8,1 triệu tấn, cao gấp gần 20 lần so với năm 1975.

Với chính sách đổi mới, Việt Nam đã vươn lên trở thành một cường quốc xuất khẩu nông sản. Nếu năm 1986, giá trị xuất khẩu nông sản chỉ đạt 486,2 triệu USD, thì đến năm 2000, con số này đã tăng lên 4,2 tỷ USD, và đến năm 2024 đạt tới 62,5 tỷ USD, cao gấp 125 lần so với năm 1986, và cao gấp 625 lần so với năm 1975. Trong giai đoạn 1986-2024, tốc độ tăng trưởng giá trị kim ngạch xuất khẩu nông sản đạt trung bình 13,5%/năm.

Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong năm 2024 bao gồm: gỗ và sản phẩm gỗ (16,2 tỷ USD); thủy sản (hơn 10 tỷ USD); rau quả (7,12 tỷ USD); gạo (5,75 tỷ USD); cà phê (5,48 tỷ USD); hạt điều (4,48 tỷ USD); mủ cao su (3,37 tỷ USD); sắn (1,13 tỷ USD)…

Theo số liệu từ Ngân hàng Thế giới (WB), năm 2023, GDP nông nghiệp Việt Nam đạt khoảng 22,3 tỷ USD, chiếm 0,83% GDP nông nghiệp toàn thế giới, đứng thứ 5 trên thế giới.

Một số nông sản của Việt Nam giữ vị thế cao trên thị trường toàn cầu về sản lượng: tiêu (thứ nhất), cà phê (thứ hai), cao su và điều (thứ ba), lúa gạo (thứ năm) và chè (thứ sáu).

Tỷ trọng thị phần kim ngạch xuất khẩu của một số nông sản Việt Nam cũng rất đáng kể: điều (60%), tiêu (32,2%), thủy sản (28,8%), đồ gỗ (24,3%), cao su (15%), cà phê (14,1%), lúa/gạo (10,3%), chè (8,5%) và rau quả (7,8%) trong tổng thị phần thương mại toàn cầu.

Đến nay, nông nghiệp là trụ cột của nền kinh tế, nền tảng cho sự phát triển và ổn định xã hội, và là nguồn sống của phần lớn dân cư nông thôn.

Ngành nông nghiệp hiện đang nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính thông qua các mô hình nông nghiệp xanh, bảo vệ và phát triển rừng, hướng đến các giải pháp thân thiện với môi trường, không gây tác động tiêu cực đến tài nguyên thiên nhiên và hiệu ứng nhà kính. Nhờ triển khai các mô hình sản xuất nông nghiệp xanh, sạch, các sản phẩm nông nghiệp và thủy sản sạch, truy xuất được nguồn gốc ngày càng chiếm tỷ trọng lớn.

Nông nghiệp Việt Nam cũng tham gia vào bảo tồn và tạo không gian sinh thái, gắn kết mối quan hệ hữu cơ giữa con người, động vật và cây trồng, đảm bảo sức khỏe cho con người, đất và cây trồng. Môi trường đất khỏe mạnh tạo ra cây trồng khỏe mạnh, từ đó tăng cường sức khỏe cho con người và động vật.

Cùng với chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực của toàn ngành nông nghiệp đã mang lại vị thế lớn cho nông nghiệp Việt Nam trên thế giới. Tuy nhiên, ngành nông nghiệp vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn và hạn chế cần được giải quyết trong thời gian tới. Các yếu tố khách quan như nguồn tài nguyên cạn kiệt, suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu, biến động thị trường và thay đổi xu hướng tiêu dùng toàn cầu đang và sẽ tác động đến sản xuất nông nghiệp của Việt Nam.

Hướng Tới Nền Nông Nghiệp Sinh Thái, Sản Xuất Quy Mô Lớn

Để tiếp tục phát huy vị thế này, nông nghiệp Việt Nam sẽ tiếp tục đổi mới theo chủ trương, chính sách lớn hiện nay, đặc biệt là theo tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, ngày 16/6/2022, “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” (Nghị quyết số 19-NQ/TW) và Quyết định số 150/QĐ-TTg, ngày 28/1/2022, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050” theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh. Trong đó, nông dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới.

Nông nghiệp phát triển theo hướng hiệu quả, bền vững, tích hợp đa giá trị theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, năng lực cạnh tranh, gắn với đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến, bảo quản sau thu hoạch và phát triển thị trường nông sản cả ở trong nước và ngoài nước; bảo đảm an toàn thực phẩm, an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ môi trường sinh thái; khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn.

Chuyển mạnh tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với nhu cầu thị trường. Phát huy lợi thế vùng, miền, địa phương, tổ chức sản xuất, kinh doanh nông nghiệp theo chuỗi giá trị, dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Theo đó, tầm nhìn đến năm 2045 hướng tới nông nghiệp sinh thái, sản xuất hàng hóa quy mô lớn, có giá trị gia tăng cao, gắn kết chặt chẽ với thị trường trong và ngoài nước, công nghiệp chế biến và bảo quản nông sản hiện đại, xuất khẩu nhiều loại nông sản đứng hàng đầu thế giới.

Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 17+18 -2025 phát hành ngày 28/4/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây : https://postenp.phaha.vn/tap-chi-kinh-te-viet-nam/detail/1374 an ninh lương thực Nông nghiệp Việt Nam nông sản thị trường Vneconomy 13:00 28/04/2025 Lê Minh Hoan


Source: VNECONOMY
This article has been adapted from its original source.