FTA: Nền tảng xây dựng hệ sinh thái ứng phó thương chiến Mỹ - Giải pháp cho chính sách thuế quan đáp trả.


Tại hội nghị giao ban xúc tiến thương mại với hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài tháng 4/2025, chủ đề “Chủ động thích ứng với chiến tranh thương mại và chính sách thuế đối ứng của Hoa Kỳ: Vai trò của hệ thống xúc tiến thương mại và Thương vụ trong bảo vệ và phát triển thị trường xuất khẩu,” các tham tán thương mại từ Hoa Kỳ, Trung Quốc, Canada và các thị trường khác đã cập nhật tình hình và phân tích tác động của chính sách thuế đối ứng từ Hoa Kỳ.

THÁCH THỨC VỚI XUẤT KHẨU NHIỀU HƠN CƠ HỘI

Dữ liệu thống kê quý 1/2025 cho thấy xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 31,4 tỷ USD, tăng 22% so với cùng kỳ, trong khi nhập khẩu đạt 4,1 tỷ USD, tăng 21%. Điều này cho thấy cấu trúc thương mại song phương có tính bổ trợ, không cạnh tranh trực tiếp.

Ông Đỗ Ngọc Hưng, Tham tán Thương mại tại Hoa Kỳ, nhận định việc Hoa Kỳ áp dụng mức thuế đối ứng 46% sẽ tác động đáng kể đến ngành điện tử Việt Nam, bao gồm các nhà sản xuất lớn như Samsung, Intel và LG – những đơn vị đóng góp quan trọng vào kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Tác động bao gồm tăng chi phí sản xuất, làm suy giảm năng lực cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ.

Các ngành dệt may và giày dép, vốn sử dụng nhiều lao động tại Việt Nam, dự kiến sẽ đối mặt với không ít thách thức. Mức thuế đối ứng cao sẽ đẩy giá thành sản phẩm lên cao tại thị trường Hoa Kỳ, dẫn đến giảm đơn hàng từ các thương hiệu và nhà bán lẻ lớn như Nike và Adidas. Sự suy giảm nhu cầu có thể dẫn đến cắt giảm sản xuất, gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc làm của người lao động.

Các ngành xuất khẩu khác như nội thất và thủy sản cũng được dự đoán sẽ chịu ảnh hưởng từ mức thuế đối ứng cao, do chi phí tăng và khả năng cạnh tranh suy giảm trên thị trường Hoa Kỳ.

Đối với thị trường Canada, bà Trần Thu Quỳnh, Tham tán Thương mại tại Canada, cho rằng thách thức đối với xuất khẩu của Việt Nam vào Canada trong năm 2025 lớn hơn cơ hội. Canada đã duy trì chính sách tỷ giá hối đoái thấp so với đồng USD để thúc đẩy xuất khẩu trong nhiều năm. Chiến tranh thương mại đã đẩy giá trị đồng CAD (Đô la Canada) xuống thấp hơn, hiện dao động quanh mức 0,70 so với USD, làm cho hàng hóa Việt Nam trở nên đắt đỏ hơn ít nhất 8% so với cùng kỳ năm ngoái.

Theo bà Quỳnh, sự mất giá của đồng CAD sẽ tác động đáng kể đến khả năng thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam vào Canada trong những tháng cuối năm, đặc biệt trong bối cảnh người tiêu dùng Canada thắt chặt chi tiêu.

Bên cạnh những điểm yếu cố hữu của sản xuất Việt Nam như khả năng cạnh tranh về giá thấp, chi phí logistics và vận tải cao, năng lực sản xuất còn hạn chế, thì việc phụ thuộc vào các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ để tiếp cận thị trường Canada cũng là một rủi ro đối với hàng hóa Việt Nam. Theo đó, cứ 4/10 USD hàng Việt Nam nhập khẩu vào Canada là thông qua Hoa Kỳ.

“Khó khăn nằm ở chỗ liệu có các nhà nhập khẩu Canada nào đủ mạnh và đủ quan tâm để thay thế Hoa Kỳ đứng ra nhập khẩu 4 tỷ USD hàng hoá này, nhất là trong bối cảnh các nhà nhập khẩu Canada bị tác động bởi sự bất định của không chỉ thuế quan, mà cả tình hình nội trị Canada đều không muốn mở rộng kinh doanh hoặc ký kết các hợp đồng lâu dài với các đối tác mới, nhất là trong khả năng Việt Nam vẫn ở trong nhóm có nguy cơ chịu thuế cao từ Hoa Kỳ,” bà Quỳnh nhận định.

Ngay cả khi có sự quan tâm, quá trình chuyển dịch chuỗi cung ứng sẽ mất nhiều thời gian do đòi hỏi những nền tảng hạ tầng logistics và vận tải mới. Các diễn biến gần đây ở Hoa Kỳ, đặc biệt là việc áp thuế quan lên nhiều quốc gia, có thể làm tăng thời gian thông quan biên giới và gây chậm trễ hoặc gián đoạn đối với hàng hóa Việt Nam nhập khẩu vào Canada, từ đó tạo điều kiện cho các đối thủ cạnh tranh trong khu vực Nam Mỹ.

Canada cũng đã khởi động tham vấn về sự cần thiết của các biện pháp thương mại bổ sung để bảo vệ thị trường nội địa khỏi nguy cơ chuyển hướng sản phẩm thép từ các nước thứ ba do các biện pháp thương mại gần đây của Hoa Kỳ. Không loại trừ khả năng Canada sẽ mở rộng các biện pháp thương mại này sang các lĩnh vực hàng hóa khác để đối phó với tình trạng chuyển hướng xuất khẩu từ Trung Quốc sang Canada thông qua nước thứ ba.

“TRONG NGUY CÓ CƠ”

Trước những thách thức trong xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, ông Hưng đề xuất Chính phủ tăng cường nỗ lực ngoại giao và đàm phán để giải quyết vấn đề thuế đối ứng. Cần tiếp tục triển khai lộ trình cụ thể để bảo vệ lợi ích thương mại của Việt Nam trước các biện pháp thuế quan tiềm tàng từ chính quyền Hoa Kỳ. Đồng thời, tăng cường hợp tác chiến lược với Hoa Kỳ nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững trong quan hệ song phương, từ công nghiệp, thương mại, đầu tư, năng lượng đến trí tuệ nhân tạo.

Bên cạnh đó, cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu thông qua các hiệp định thương mại tự do (FTA), đặc biệt là các FTA thế hệ mới. Doanh nghiệp cần nâng cao khả năng cạnh tranh, nâng cấp công nghệ, khuyến khích đổi mới, đơn giản hóa các quy định kinh doanh và cải thiện cơ sở hạ tầng để giảm chi phí sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Đối với thị trường Canada, bà Quỳnh cho rằng sự phụ thuộc của chuỗi cung ứng Bắc Mỹ vào thị trường Hoa Kỳ đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết cho các doanh nghiệp, hiệp hội và Thương vụ là phải có các giải pháp ứng phó để đảm bảo khoảng 4 tỷ USD hàng hóa phụ thuộc vào các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ tiếp tục đến được thị trường Canada, đồng thời nhanh chóng nắm bắt các khoảng trống thị trường.

Theo bà Quỳnh, tính liên thông giữa thị trường Canada và Hoa Kỳ không còn đúng trong bối cảnh hiện tại, và việc thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại tại Hoa Kỳ không đồng nghĩa với việc sẽ tự động mở ra cánh cửa vào thị trường Canada.

“Trong nguy có cơ, đây chính là thời điểm để các nhà sản xuất, chuỗi bán lẻ, trung gian thương mại của hai nước không chỉ dịch chuyển chuỗi cung ứng, mà còn dịch chuyển cả chuỗi sản xuất, đầu tư, công nghệ, thương hiệu và phát triển những nền tảng hạ tầng logistics, vận tải mới, kiến tạo hệ sinh thái Hiệp định CPTPP”, bà Quỳnh nhấn mạnh.

Để hỗ trợ thiết thực và tạo cơ sở cho các quyết định chuyển dịch của doanh nghiệp và hiệp hội về dài hạn, bà Quỳnh kiến nghị sự tham gia và phối hợp hỗ trợ thông tin từ nhiều cơ quan. Cụ thể, Cục Thuế cần phân tích các mức thuế Hoa Kỳ áp dụng cho mỗi quốc gia theo từng mã HS, bao gồm cả các loại thuế trước đó (MFN - thuế tối huệ quốc + CVD - thuế chống trợ cấp), đặc biệt cung cấp mức thuế cộng gộp cuối cùng cho từng mặt hàng của Trung Quốc để có cơ sở hỗ trợ doanh nghiệp đánh giá khả năng cạnh tranh với Trung Quốc và các nước khác.

Cục Hải quan cần hỗ trợ thông tin về danh mục các doanh nghiệp nhập khẩu của từng thị trường đã nhập hàng Việt Nam trong 10 năm gần đây, phối hợp tính toán giá trị xuất khẩu trung chuyển và điểm đến cuối cùng của hàng Việt Nam để có cơ sở triển khai các biện pháp xúc tiến phù hợp và đẩy mạnh công tác hỗ trợ doanh nghiệp sử dụng các ưu đãi xuất xứ.

Cục Đầu tư nước ngoài cần hỗ trợ thông tin về danh mục các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam theo ngành nghề để có hướng vận động và kết nối phù hợp, hướng tới việc tăng cường liên kết.

Bà Quỳnh chia sẻ thêm rằng nỗ lực của Thương vụ trong bối cảnh hiện nay là tập trung vào việc vận động chuyên gia và dự án phát triển công cụ hỗ trợ phân loại mã HS, xác định xuất xứ và công cụ tính toán xuất xứ đầu vào trong sản xuất để đáp ứng các yêu cầu của các FTA.


Source: VNECONOMY
This article has been adapted from its original source.