Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết thúc đẩy tăng trưởng khu vực kinh tế tư nhân - Định hướng chiến lược mới.


Sau gần bốn thập kỷ Đổi mới, khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam đã chứng kiến sự tăng trưởng đáng kể, trở thành một thành phần không thể thiếu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với khoảng 940.000 doanh nghiệp và trên 5 triệu hộ kinh doanh, khu vực này đóng góp xấp xỉ 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% tổng lực lượng lao động. Tuy nhiên, sự phát triển của khu vực này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng vốn có, thiếu sự đột phá về quy mô và năng lực cạnh tranh để trở thành xương sống của nền kinh tế. Phần lớn các doanh nghiệp tư nhân vẫn thuộc loại hình siêu nhỏ, nhỏ và vừa (SME), đối mặt với hạn chế về nguồn lực tài chính và trình độ quản trị. Năng lực công nghệ và đổi mới sáng tạo còn yếu, dẫn đến năng suất lao động, hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh thấp. Thêm vào đó, tư duy kinh doanh còn thiếu tầm nhìn chiến lược, và mối liên kết với các doanh nghiệp nhà nước (SOE) và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn lỏng lẻo. Những hạn chế này xuất phát từ tư duy và nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của khu vực kinh tế tư nhân, không bắt kịp với yêu cầu phát triển. Thể chế và pháp luật còn nhiều vướng mắc, bất cập, và công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa được quan tâm đúng mức. Quyền tài sản và quyền tự do kinh doanh chưa được bảo đảm đầy đủ. Các doanh nghiệp tư nhân vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn lực thiết yếu như vốn, công nghệ, đất đai, tài nguyên và đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Các chính sách ưu đãi và hỗ trợ chưa thực sự hiệu quả, khó tiếp cận, trong khi chi phí kinh doanh vẫn còn cao. Trong bối cảnh này, việc đổi mới tư duy và đưa ra các giải pháp mang tính đột phá để phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của khu vực kinh tế tư nhân là vô cùng cấp thiết.

XÓA BỎ ĐỊNH KIẾN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN, KIẾN TẠO MÔI TRƯỜNG KINH DOANH THUẬN LỢI

Nghị quyết 68-NQ/TW đưa ra năm quan điểm chỉ đạo cốt lõi, thể hiện sự thay đổi căn bản trong tư duy và nhận thức về vai trò của kinh tế tư nhân. Thứ nhất, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng bậc nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong trong việc thúc đẩy tăng trưởng, đổi mới sáng tạo, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tái cấu trúc nền kinh tế. Cùng với kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân đóng vai trò nòng cốt trong việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế hiệu quả. Thứ hai, phát triển kinh tế tư nhân một cách nhanh chóng, bền vững, hiệu quả và có chất lượng cao là một nhiệm vụ vừa cấp bách vừa mang tính chiến lược, cần được cụ thể hóa trong các chiến lược và chính sách phát triển quốc gia nhằm giải phóng mọi tiềm năng và nguồn lực cho sự phát triển. Thứ ba, xóa bỏ hoàn toàn mọi định kiến về kinh tế tư nhân, đánh giá đúng vai trò quan trọng của khu vực này. Đồng thời, nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh, đổi mới sáng tạo, bảo đảm đầy đủ quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền cạnh tranh bình đẳng, củng cố niềm tin giữa Nhà nước và khu vực tư nhân, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các doanh nghiệp và doanh nhân, đảm bảo kinh tế tư nhân cạnh tranh bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực. Thứ tư, tạo ra một môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, ổn định, an toàn, chi phí thấp và đạt chuẩn quốc tế. Hoàn thiện pháp luật và cơ chế chính sách mang tính đột phá để khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển trong các lĩnh vực ưu tiên, ứng dụng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, thúc đẩy khởi nghiệp và làm giàu chính đáng. Thứ năm, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, kiến tạo của Nhà nước, lấy doanh nghiệp làm trung tâm và chủ thể; chú trọng đào tạo đội ngũ doanh nhân có đạo đức, văn hóa kinh doanh, bản lĩnh và trí tuệ. Tôn vinh và phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có tinh thần yêu nước, khát vọng cống hiến, thượng tôn pháp luật và trách nhiệm xã hội.

Theo đó, Nghị quyết đặt ra các mục tiêu cụ thể và đầy tham vọng cho sự phát triển của kinh tế tư nhân. Đến năm 2030, phấn đấu có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động, đạt tỷ lệ 20 doanh nghiệp trên 1.000 dân; ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 10-12%/năm; đóng góp 55-58% GDP, 35-40% tổng thu ngân sách nhà nước; giải quyết 84-85% tổng số việc làm… Đến năm 2045, phấn đấu có ít nhất 3 triệu doanh nghiệp hoạt động, đóng góp trên 60% GDP và có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế.

TÁM NHÓM GIẢI PHÁP THÁO GỠ ĐIỂM NGHẼN

Để hiện thực hóa các mục tiêu trên, Nghị quyết đề ra tám nhóm nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm, bao trùm các khía cạnh từ nhận thức, thể chế, nguồn lực đến khoa học, công nghệ và phát triển đội ngũ doanh nhân. Cụ thể:

Một là, đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức và hành động, khơi dậy niềm tin và khát vọng dân tộc, tạo ra xung lực mới và khí thế mới cho sự phát triển của kinh tế tư nhân. Nhất quán nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, toàn bộ hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân… về vị trí và vai trò của kinh tế tư nhân trong toàn bộ hệ thống chính trị và xã hội. Nhà nước đóng vai trò kiến tạo và phục vụ, không can thiệp hành chính trái với nguyên tắc thị trường. Xây dựng mối quan hệ cởi mở, thân thiện và đồng hành giữa chính quyền và doanh nghiệp… Đẩy mạnh truyền thông để khơi dậy tinh thần kinh doanh. Nghiêm cấm các hành vi tiêu cực và nhũng nhiễu.

Hai là, cải cách thể chế, bảo vệ quyền tài sản và tự do kinh doanh. Trong đó, đẩy mạnh cải cách và hoàn thiện thể chế, chính sách. Đổi mới tư duy xây dựng và thực thi pháp luật theo cơ chế thị trường, giảm can thiệp hành chính và cơ chế “xin - cho”. Đảm bảo quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Hoàn thiện pháp luật, xóa bỏ các rào cản và tạo ra một môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch và chi phí thấp. Minh bạch hóa, số hóa và tự động hóa các thủ tục hành chính. Đến năm 2025, cắt giảm ít nhất 30% thời gian xử lý thủ tục, 30% chi phí tuân thủ và 30% điều kiện kinh doanh. Phấn đấu đến năm 2028, môi trường kinh doanh thuộc top 3 ASEAN và top 30 thế giới. Chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm, sửa đổi Luật Phá sản và đẩy mạnh tố tụng điện tử. Thiết lập cơ chế phản hồi về các vướng mắc. Đảm bảo không phân biệt đối xử trong việc tiếp cận nguồn lực. Hoàn thiện chính sách thuế và phí công bằng, cũng như khung pháp lý cho các mô hình kinh tế mới (Fintech, AI, tài sản ảo…), cơ chế thử nghiệm sandbox và pháp luật về dữ liệu… Có chính sách hỗ trợ đặc biệt cho các DNNVV, bãi bỏ lệ phí môn bài và miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 3 năm đầu. Đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước, thương mại điện tử, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu và ưu tiên các DNNVV tham gia vào mua sắm công…

Ba là, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân tiếp cận các nguồn lực (đất đai, vốn, nhân lực). Trong đó, có cơ chế và chính sách phù hợp để kiểm soát biến động giá đất, hoàn thành cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai trong năm 2025. Thực hiện giao dịch điện tử, công khai thông tin và giảm thời gian thủ tục. Cho phép các địa phương sử dụng ngân sách để hỗ trợ hạ tầng KCN và CCN để dành quỹ đất (tối thiểu 20ha/khu hoặc 5% quỹ đất) cho các doanh nghiệp công nghệ cao, DNNVV và khởi nghiệp sáng tạo thuê, giảm 30% tiền thuê đất trong 5 năm đầu. Khuyến khích cho vay dựa trên dòng tiền, chuỗi giá trị và tài sản vô hình. Phát triển tín dụng xanh và hỗ trợ lãi suất cho các dự án xanh và ESG. Hoàn thiện mô hình quỹ bảo lãnh tín dụng và khuyến khích các doanh nghiệp lớn bảo lãnh cho các DNNVV. Hoàn thiện hoạt động của Quỹ Phát triển DNNVV, bổ sung chức năng đầu tư vào các quỹ đầu tư tư nhân và tài trợ vốn mồi cho khởi nghiệp. Sửa đổi các quy định về công ty cho thuê tài chính. Ban hành khung pháp lý thử nghiệm cho vay ngang hàng và sàn gọi vốn cộng đồng. Kết nối và chia sẻ dữ liệu giữa ngân hàng và thuế để đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp. Hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao quản trị tài chính. Tăng cường giám sát hoạt động tín dụng. Hoàn thiện chính sách thuế để tạo thuận lợi cho các quỹ đầu tư góp vốn. Nghiên cứu cho phép các định chế tài chính huy động vốn từ quỹ BHXH và hưu trí. Nâng hạng thị trường chứng khoán và phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Phát triển mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học và nghề nghiệp chất lượng cao. Khuyến khích liên kết đào tạo quốc tế. Triển khai chương trình đào tạo 10.000 giám đốc điều hành, huy động các doanh nhân thành đạt tham gia đào tạo. Thúc đẩy đào tạo kỹ năng sáng tạo, STEM, ngoại ngữ và kỹ năng số.

Bốn là, thúc đẩy khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh. Triển khai quyết liệt Nghị quyết 57-NQ/TW. Ban hành khung pháp lý thử nghiệm (sandbox) cho các công nghệ và mô hình kinh doanh mới. Cho phép tính chi phí R&D vào chi phí được trừ thuế thu nhập doanh nghiệp bằng 200% chi phí thực tế. Hỗ trợ chi phí đầu tư công nghệ, chuyển đổi số và xanh thông qua khấu trừ thuế hoặc tài trợ. Cho phép doanh nghiệp trích tối đa 20% thu nhập tính thuế để lập quỹ KHCN và đổi mới sáng tạo. Cho phép doanh nghiệp sử dụng phòng thí nghiệm và thiết bị nghiên cứu của Nhà nước với mức phí hợp lý. Miễn giảm thuế thu nhập cá nhân cho các chuyên gia làm việc tại các doanh nghiệp và trung tâm đổi mới sáng tạo.

Năm là, tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp. Xây dựng chuỗi liên kết doanh nghiệp theo cụm ngành và chuỗi giá trị. Khuyến khích các doanh nghiệp lớn dẫn dắt chuỗi cung ứng nội địa. Hỗ trợ phát triển các cụm liên kết ngành. Việc các doanh nghiệp lớn chuyển giao công nghệ và hỗ trợ các DNNVV sẽ là tiêu chí để hưởng ưu đãi. Chi phí đào tạo của các doanh nghiệp lớn cho các DNNVV sẽ được trừ vào thuế thu nhập doanh nghiệp. Khuyến khích các tổ chức tín dụng tài trợ vốn theo chuỗi. Hỗ trợ doanh nghiệp đạt các chứng chỉ quốc tế. Hỗ trợ kết nối các doanh nghiệp FDI và nội địa. Áp dụng tỷ lệ nội địa hóa phù hợp và yêu cầu các dự án FDI lớn có kế hoạch sử dụng chuỗi cung ứng nội địa. Hỗ trợ khởi nghiệp cho cán bộ từng làm việc tại các doanh nghiệp FDI.

Sáu là, hình thành và phát triển các doanh nghiệp lớn và tập đoàn tư nhân tầm cỡ. Mở rộng sự tham gia của tư nhân vào các dự án quan trọng quốc gia. Nhà nước chủ động đặt hàng, đấu thầu hạn chế, chỉ định thầu hoặc ưu đãi cho tư nhân tham gia vào các lĩnh vực chiến lược (đường sắt tốc độ cao, năng lượng, hạ tầng số, quốc phòng…). Thúc đẩy tư nhân đầu tư vào y tế, giáo dục chất lượng cao và công nghiệp văn hóa. Đa dạng hóa các mô hình hợp tác công tư (PPP). Triển khai Chương trình phát triển 1.000 doanh nghiệp tiên phong về KHCN và đổi mới sáng tạo. Triển khai Chương trình “Go Global” để hỗ trợ doanh nghiệp vươn ra quốc tế.

Bảy là, hỗ trợ thực chất và hiệu quả các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và hộ kinh doanh. Hoàn thiện pháp lý về kinh doanh cá thể và khuyến khích chuyển đổi thành doanh nghiệp. Đơn giản hóa chế độ kế toán, thuế và bảo hiểm. Xóa bỏ thuế khoán chậm nhất vào năm 2026. Cung cấp miễn phí nền tảng số, phần mềm kế toán, tư vấn pháp lý và đào tạo. Thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện, thúc đẩy tiếp cận tài chính cho các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và hộ kinh doanh, ưu tiên các nhóm yếu thế.

Tám là, đề cao đạo đức kinh doanh, trách nhiệm xã hội và tinh thần doanh nhân. Xây dựng đội ngũ doanh nhân có đạo đức, văn hóa kinh doanh và khát vọng cống hiến. Đánh giá doanh nghiệp theo chuẩn quốc tế dựa trên sự tuân thủ pháp luật, tạo việc làm, đóng góp ngân sách và an sinh xã hội. Thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp và đưa đào tạo khởi nghiệp vào giáo dục. Huy động các doanh nhân tham gia quản trị đất nước. Thiết lập mối quan hệ chặt chẽ và thực chất giữa chính quyền và doanh nghiệp. Phát huy vai trò phản biện chính sách của doanh nghiệp và hiệp hội, nghiêm cấm trục lợi chính sách.

Kinh tế tư nhân Nghị quyết số 68 Vneconomy 10:57 05/05/2025 Ngân Hà


Source: VNECONOMY
This article has been adapted from its original source.