
Quy định xanh, thuế carbon và hộ chiếu vaccine gia tăng áp lực lên các mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
Tại phiên trình bày dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trước Quốc hội ngày 5/5/2025, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc điều chỉnh luật để ứng phó với các thách thức từ chính sách xanh toàn cầu.
Ứng phó với các thách thức mới liên quan đến chính sách xanh
Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, được thông qua ngày 17/6/2010, là cột mốc quan trọng trong hành lang pháp lý về hiệu quả năng lượng của Việt Nam. Tuy nhiên, sau 15 năm thực thi, một số bất cập đã bộc lộ, đòi hỏi sự rà soát và sửa đổi để thích ứng với thực tiễn, đặc biệt là trong bối cảnh các chính sách xanh đang định hình lại thương mại toàn cầu. Cụ thể, các cơ chế như thuế phát thải carbon (ETS), Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), và yêu cầu về dấu vết carbon đang tạo ra áp lực lớn từ các thị trường xuất khẩu chủ lực như châu Âu và châu Mỹ. Các quốc gia ASEAN như Thái Lan, Malaysia và Singapore cũng đang tích cực xây dựng các quy định tương tự để kiểm soát phát thải.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp và nguy cơ không đạt được các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG) vào năm 2030, xu hướng kiểm soát phát thải khí nhà kính đang gia tăng mạnh mẽ trên toàn cầu. Các quy định về môi trường từ các thị trường lớn như châu Âu và Mỹ - ví dụ, việc EU áp dụng thuế carbon từ năm 2026, các quy định về hộ chiếu xanh cho hàng dệt may, và yêu cầu truy vết carbon đối với hàng hóa xuất khẩu sang châu Á - Thái Bình Dương và Mỹ - đang trở thành những hàng rào kỹ thuật thương mại đáng kể.
Theo Bộ trưởng Diên, các quy định ngày càng khắt khe này tạo ra áp lực lớn lên các ngành công nghiệp xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam như dệt may, da giày, nhựa, thép, điện, điện tử và chế biến thủy sản khi tiếp cận thị trường châu Âu, Mỹ và Trung Quốc. Ước tính, khoảng 20/52 triệu lao động trực tiếp (năm 2023) và GDP của Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các quy định này.
Thêm vào đó, việc huy động nguồn lực cho quá trình chuyển đổi sang nền công nghiệp xanh, bền vững, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả năng lượng, tài nguyên còn nhiều hạn chế. Các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam đang gặp bất lợi do thiếu các cơ chế tài chính hỗ trợ tuân thủ các quy định xanh, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế. Trong khi đó, tại châu Âu, Mỹ, Hàn Quốc và các nước ASEAN, các cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi dây chuyền sản xuất để đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường mới đã được triển khai rộng rãi. Ví dụ, các cơ chế khuyến khích thỏa thuận tự nguyện được áp dụng rộng rãi tại EU và Mỹ, hay cơ chế hỗ trợ Công ty dịch vụ năng lượng (ESCO) ở Hàn Quốc và Thái Lan.
Việt Nam đã cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Để đạt được mục tiêu này, cùng với việc chuyển đổi cơ cấu năng lượng theo hướng giảm thiểu năng lượng hóa thạch và tăng cường năng lượng tái tạo, cần thiết phải sửa đổi Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả theo hướng tăng cường các quy định và chế tài mang tính bắt buộc thay vì chỉ khuyến khích các giải pháp tiết kiệm năng lượng.
Nâng cao tính cạnh tranh của các doanh nghiệp trước thách thức quy định xanh
Việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả là vô cùng cấp thiết. Việc sửa đổi và bổ sung luật sẽ giúp Việt Nam kịp thời tận dụng, thu hút và huy động được các nguồn lực quốc tế để hỗ trợ và thúc đẩy quá trình đầu tư tiết kiệm năng lượng, chuyển đổi thị trường các sản phẩm tiết kiệm năng lượng.
Bộ trưởng nhấn mạnh rằng việc ban hành luật này nhằm nâng cao tính cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trước các thách thức từ các quy định xanh của châu Âu, như thuế carbon (ETS) và CBAM đối với hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu vào thị trường châu Âu, châu Mỹ, Nhật Bản, v.v. Việc sửa đổi và bổ sung luật cũng nhằm xây dựng các công cụ tài chính, cơ chế ưu đãi, và công cụ hỗ trợ tài chính về thuế, đất đai, lãi vay, và cơ chế bảo lãnh vay vốn để hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào các dự án sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, thông qua cơ chế quỹ.
Cùng với đó, luật sửa đổi sẽ nâng cao tính thực tiễn và khả thi của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo đảm tính đồng bộ và thống nhất của hệ thống pháp luật trong các hoạt động sử dụng năng lượng. Đồng thời, chủ động và tích cực thực hiện các cam kết khi tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP26). Luật cũng sẽ tăng cường chuyển đổi công nghệ giảm cường độ năng lượng trong các ngành sản xuất công nghiệp, thương mại, dịch vụ có hiệu suất sử dụng năng lượng cao, tiết kiệm năng lượng, phục vụ mục tiêu sử dụng hợp lý các nguồn năng lượng, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Trong quá trình thẩm tra dự án Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy cho biết Ủy ban thống nhất quan điểm, mục tiêu và phạm vi sửa đổi dự thảo Luật. Cơ quan thẩm tra đề nghị tiếp tục rà soát và thể chế hóa rõ hơn một số nội dung về cơ chế và chính sách để huy động nguồn lực cho chuyển đổi công nghệ và mô hình sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, cần rà soát các quy định về đối tượng dán nhãn năng lượng, kế hoạch kiểm tra việc tuân thủ quy định quản lý phương tiện và thiết bị sử dụng năng lượng, và cơ chế tài chính thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả để bảo đảm tính khả thi.
Ủy ban cũng đề nghị đánh giá và rà soát toàn diện các quy định, hướng dẫn và khuyến nghị trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là các cam kết khi tham gia COP26, để đảm bảo tính tương thích.
Về quy định liên quan đến cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm, cơ quan thẩm tra đề nghị nghiên cứu và bổ sung cơ chế cập nhật Danh sách cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm, cũng như bổ sung quy định về trách nhiệm xây dựng bộ chỉ số đánh giá mức độ sử dụng năng lượng của cơ sở sản xuất. Cùng với đó, cần nghiên cứu ban hành bộ chỉ số kỹ thuật theo ngành nghề và tích hợp với chỉ số cường độ năng lượng vào hệ thống chỉ tiêu quốc gia; làm rõ cơ sở quy định các biện pháp quản lý đối với cơ sở kinh doanh kiểm toán năng lượng, việc đáp ứng yêu cầu về cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh, giảm chi phí tuân thủ pháp luật.
Về quy định dán nhãn năng lượng cho vật liệu xây dựng, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường nhận thấy rằng vật liệu xây dựng có tác động lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng năng lượng của công trình. Nhiều quốc gia đã có chính sách khuyến khích việc sử dụng vật liệu có hiệu suất năng lượng cao. Để thực hiện chính sách này, cần có đủ hệ thống quy chuẩn, hạ tầng kiểm định và chính sách truyền thông, ưu đãi phù hợp. Do đó, Ủy ban đề nghị xem xét và nghiên cứu làm rõ tính khả thi của quy định này; rà soát và bổ sung các đối tượng dán nhãn; rà soát các điều khoản để chỉnh lý phù hợp, bảo đảm tính thống nhất và thuận tiện cho việc hợp nhất văn bản.
Về Quỹ thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, cơ quan thẩm tra cơ bản thống nhất ý kiến quy định trên nhằm thể chế hóa Nghị quyết số 55-NQ/TW, góp phần thực hiện các cam kết khi tham gia COP26 và dựa trên tham khảo kinh nghiệm quốc tế. Tuy nhiên, cần nghiên cứu quy định rõ ràng, cụ thể và phù hợp hơn, nhất là quy định về thành lập, quản lý, mục tiêu, nhiệm vụ, cơ chế tài chính và sử dụng Quỹ.
Liên quan đến Công ty dịch vụ năng lượng (ESCO), Ủy ban cơ bản tán thành với sự cần thiết quy định về Công ty dịch vụ năng lượng; đây là mô hình kinh doanh mới được sử dụng hiệu quả tại nhiều nước phát triển do tính ưu việt trong việc đầu tư trước thiết bị năng lượng cho người dùng và hoàn trả chi phí thiết bị trong quá trình sử dụng; thúc đẩy thị trường tiết kiệm năng lượng, tạo động lực cho các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này, góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam về giảm phát thải khí nhà kính và phát triển bền vững. Ở Việt Nam, mô hình công ty này chưa phổ biến, thiếu hành lang pháp lý, hoạt động mang tính tự phát và gặp nhiều khó khăn. Do đó, cơ quan thẩm tra đề nghị nghiên cứu bổ sung quy định nội hàm quản lý đối với hoạt động của mô hình công ty này; có chính sách ưu đãi đầu tư, phát triển và giao Chính phủ quy định cụ thể.
Source: VNECONOMY
This article has been adapted from its original source.