
Xuất khẩu thủy sản Việt Nam phục hồi mạnh mẽ, ghi nhận mức tăng trưởng hai con số tại các thị trường trọng điểm.
Dữ liệu từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) cho thấy, xuất khẩu thủy sản trong 4 tháng đầu năm 2025 đạt giá trị 3,3 tỷ USD, ghi nhận mức tăng trưởng 21% so với cùng kỳ năm trước. Riêng tháng 4, kim ngạch đạt 894,2 triệu USD, tăng 15%. Tuy nhiên, đà tăng trưởng này không đồng đều giữa các phân khúc sản phẩm và thị trường, trong bối cảnh các bất ổn về thuế quan từ Hoa Kỳ đang tạo ra những thách thức đáng kể cho ngành.
PHÂN TÍCH CHI TIẾT CÁC THỊ TRƯỜNG CHỦ LỰC
Về phương diện hàng hóa, tôm vẫn duy trì vị thế là mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đóng góp 1,27 tỷ USD trong 4 tháng, tăng trưởng 30% so với cùng kỳ. Riêng tháng 4, xuất khẩu tôm đạt 358,9 triệu USD, tăng 25%. Sự phục hồi này được thúc đẩy bởi nhu cầu gia tăng tại các thị trường trọng điểm như Trung Quốc, Liên minh Châu Âu (EU) và Nhật Bản, cùng với sự phục hồi của giá tôm do cán cân cung – cầu toàn cầu được tái thiết lập.
Cá tra xếp thứ hai về giá trị xuất khẩu, đạt 632,7 triệu USD, tăng 9%. Trong tháng 4, kim ngạch đạt 174,2 triệu USD, tăng nhẹ 3%. Cá ngừ đạt 304,2 triệu USD, tăng 1% trong 4 tháng, trong khi tháng 4 duy trì ổn định ở mức 86,3 triệu USD so với cùng kỳ.
Mặt hàng mực và bạch tuộc đạt 216,4 triệu USD, tăng 18% trong 4 tháng; riêng tháng 4 tăng 22%, đạt 54,1 triệu USD. Nhóm nhuyễn thể có vỏ tiếp tục chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ với 83,1 triệu USD, tăng 82%; riêng tháng 4 đạt 21,1 triệu USD, tăng 36%. Ngược lại, nhóm nhuyễn thể khác giảm 33% trong tháng 4, đạt dưới 0,5 triệu USD, mặc dù lũy kế 4 tháng vẫn tăng nhẹ 5%. Cua, ghẹ và giáp xác khác tăng trưởng ấn tượng 50%, đạt 112,1 triệu USD; riêng tháng 4 đạt 27,6 triệu USD, tăng 21%.
ĐÁNH GIÁ TĂNG TRƯỞNG TẠI CÁC THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ
Trung Quốc và Hồng Kông tiếp tục là khu vực tiêu thụ lớn nhất, với kim ngạch 709,8 triệu USD trong 4 tháng, tăng 56%; tháng 4 đạt 173,3 triệu USD, tăng 23%. Nhật Bản đứng thứ hai với 536,6 triệu USD, tăng 22%; tháng 4 đạt 134,9 triệu USD, tăng 13%.
Thị trường Hoa Kỳ đạt 498,4 triệu USD trong 4 tháng đầu năm, tăng 7% so với cùng kỳ, với tháng 4 đạt 153,6 triệu USD, tăng 8%. Mặc dù ghi nhận sự phục hồi sau quý 1 trầm lắng, hoạt động xuất khẩu sang Mỹ vẫn chịu ảnh hưởng rõ rệt từ chính sách thuế quan đối ứng và các rào cản kỹ thuật mới.
Trong khi đó, thị trường EU ghi nhận kim ngạch 351,5 triệu USD, tăng 17% trong 4 tháng, mặc dù riêng tháng 4 giảm 15%, chỉ đạt 76,8 triệu USD. Hàn Quốc đạt 264,1 triệu USD, tăng 15%; tháng 4 tăng nhẹ 2%, đạt 64,2 triệu USD. Đáng chú ý, ASEAN trở thành điểm sáng với mức tăng trưởng 25%, đạt 218,8 triệu USD trong 4 tháng; riêng tháng 4 tăng đột biến 68%, đạt 68,2 triệu USD.
Ngược lại, Trung Đông là thị trường duy nhất sụt giảm cả trong tháng 4, đạt 22,8 triệu USD, giảm 26% và lũy kế 4 tháng là 105,4 triệu USD, giảm 8% do nhu cầu tiêu thụ yếu. Các thị trường khác đóng góp 615,1 triệu USD, tăng 13% so với cùng kỳ; riêng tháng 4 đạt 200,4 triệu USD, tăng 35%.
TIỀM NĂNG XUẤT KHẨU CÁ NGỪ SANG THỊ TRƯỜNG NGA
Bên cạnh các thị trường truyền thống như Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU, xuất khẩu thủy sản Việt Nam thời gian qua cũng ghi nhận nhiều tín hiệu tích cực từ các thị trường ngách và thị trường mới nổi. Trong đó, Nga nổi lên như một đối tác tiềm năng, đặc biệt với mặt hàng cá ngừ, nhờ vào những nỗ lực thúc đẩy hợp tác song phương và tận dụng hiệu quả các ưu đãi thuế quan từ Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á - Âu (VN-EAEU FTA).
VASEP dẫn số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan Việt Nam cho thấy kim ngạch xuất khẩu sang Nga năm 2024 đã đạt gần 45 triệu USD, tăng gấp 5 lần so với năm 2020, đạt mức cao nhất trong 10 năm qua. Chỉ tính riêng 3 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu cá ngừ sang thị trường này đạt hơn 10 triệu USD, tăng 15% so với cùng kỳ năm 2024.
Theo các tham tán thương mại, trong bối cảnh hiện tại, Việt Nam và Nga có nhiều thuận lợi và cơ hội để hợp tác kinh tế - thương mại. Việt Nam và Nga là hai nền kinh tế mang tính bổ trợ cho nhau. Việt Nam có nhu cầu nhập khẩu các sản phẩm của Nga để phục vụ sản xuất và tiêu dùng. Trong khi đó, Nga nhập khẩu từ Việt Nam các sản phẩm nông sản nhiệt đới, thủy sản và thực phẩm.
Nga cũng là một trong 30 thị trường nhập khẩu cá ngừ lớn nhất trên thế giới. Nhập khẩu cá ngừ của Nga đang tăng lên qua từng năm, giá trị nhập khẩu cá ngừ đã tăng gấp đôi chỉ trong 5 năm, đạt gần 90 triệu USD vào năm 2023.
Tuy nhiên, các chuyên gia tại VASEP cũng lưu ý rằng những khó khăn đang cản trở thương mại song phương trong thời gian gần đây, như vận tải, thanh toán và việc đi lại của thương nhân, đang được tích cực tháo gỡ. Hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam sang Nga có thể sử dụng tuyến vận tải biển trực tiếp Vladivostok - Hải Phòng, TP.HCM với thời gian vận chuyển khoảng 8 - 11 ngày; hoặc tuyến đường sắt liên vận quốc tế từ Việt Nam qua Trung Quốc, Kazakhstan rồi tới Moskva với thời gian khoảng 35 - 40 ngày. Về thanh toán, các doanh nghiệp hai nước có thể sử dụng đồng rúp và tiền đồng Việt Nam để thanh toán trong thương mại song phương một cách tương đối thuận lợi.
Việc Liên bang Nga cấp visa điện tử với thời hạn lưu trú tại Nga 15 ngày cho công dân Việt Nam cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của các thương nhân. Ngoài ra, Hiệp định VN-EAEU FTA, có hiệu lực từ tháng 10/2016, đã tạo điều kiện cho phần lớn các mặt hàng xuất nhập khẩu giữa hai nước được hưởng mức thuế nhập khẩu 0% hoặc ở mức rất thấp. Các doanh nghiệp hai nước cần tích cực tận dụng những điều kiện thuận lợi mà Hiệp định mang lại để thúc đẩy thương mại và đầu tư song phương.
Để đảm bảo xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Nga một cách ổn định và tránh xảy ra tranh chấp liên quan đến chất lượng, VASEP khuyến nghị các doanh nghiệp Việt Nam cần nghiên cứu kỹ và tuân thủ đúng các quy định của nước sở tại về chất lượng, bao bì và nhãn mác đối với các sản phẩm.
Source: VNECONOMY
This article has been adapted from its original source.