
Luật Doanh nghiệp - Cần Khẩn Trương Quy Định Quyền Lợi Hưởng Lợi Cuối Cùng của Chủ Sở Hữu, Tăng Cường Minh Bạch Quản Trị.
Tại phiên thảo luận tổ về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp ngày 10/5, các đại biểu Quốc hội nhất trí với đề xuất bổ sung định nghĩa về “chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp có tư cách pháp nhân là cá nhân.” Động thái này nhằm đáp ứng Khuyến nghị số 24 của Lực lượng Đặc nhiệm Tài chính (FATF) về tính minh bạch trong quyền sở hữu hưởng lợi của pháp nhân.
Việc bổ sung quy định về chủ sở hữu hưởng lợi được xem là cấp thiết, nhằm thực thi các cam kết quốc tế về phòng chống rửa tiền, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đã bị đưa vào “danh sách xám” của Nhóm châu Á - Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG) từ tháng 6/2023.
Theo định nghĩa, “chủ sở hữu hưởng lợi” là cá nhân thực tế sở hữu, chi phối hoặc hưởng lợi cuối cùng từ tài sản, pháp nhân hoặc thỏa thuận pháp lý, bất kể ai là người đứng tên về mặt pháp lý. Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 cũng định nghĩa chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân có quyền sở hữu trên thực tế một hoặc một số tài sản, hoặc có quyền chi phối một pháp nhân hoặc một thỏa thuận pháp lý. Định nghĩa này phân biệt rõ ràng giữa “chủ sở hữu pháp lý” (người đứng tên trên giấy tờ) và “chủ sở hữu hưởng lợi” (người thực sự kiểm soát tài sản).
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thành Trung, đoàn Yên Bái, nhấn mạnh rằng Luật Doanh nghiệp hiện hành chưa có quy định cụ thể về chủ sở hữu hưởng lợi. Tuy nhiên, các cam kết quốc tế và quy định về phòng, chống rửa tiền yêu cầu xác định chủ sở hữu thực sự. Luật Phòng, chống rửa tiền 2022 và các nghị định hướng dẫn đã bổ sung định nghĩa và quy định về nhận diện chủ sở hữu hưởng lợi khi giao dịch, tuân thủ theo chuẩn mực của FATF.
Sự thiếu vắng quy định rõ ràng về chủ sở hữu hưởng lợi có thể tạo ra kẽ hở pháp lý, tạo điều kiện cho các hành vi bất hợp pháp. Doanh nghiệp có thể được thành lập chỉ trên danh nghĩa pháp lý, trong khi chủ sở hữu thực sự ẩn danh, gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong việc truy nguồn gốc vốn và trách nhiệm. Nguy cơ trốn thuế, tham nhũng và chuyển tài sản bất minh cũng gia tăng do thu nhập và cổ tức thực tế không được kê khai rõ người hưởng lợi.
Đại biểu Trung nhấn mạnh, minh bạch hóa cấu trúc sở hữu và điều hành doanh nghiệp thông qua quy định về chủ sở hữu hưởng lợi sẽ giúp mọi bên liên quan (cổ đông nhỏ, đối tác, nhà đầu tư nước ngoài, cơ quan quản lý) xác định rõ người quyết định cuối cùng, tránh tình trạng chủ thực sự ẩn sau nhiều lớp giấy phép hoặc người đại diện. Điều này sẽ góp phần làm minh bạch hơn việc kê khai thuế, phân chia lợi nhuận và bầu cử nhân sự quản trị.
Các chuyên gia nhận định rằng việc đưa quy định về chủ sở hữu hưởng lợi vào Luật Doanh nghiệp sẽ “giúp minh bạch hóa cấu trúc sở hữu, ngăn chặn rửa tiền, trốn thuế và tăng cường niềm tin của nhà đầu tư quốc tế.” Thông tin về người kiểm soát doanh nghiệp được công bố sẽ tăng cường trách nhiệm của người đại diện pháp luật và ban lãnh đạo công ty, đồng thời thực hiện cam kết quốc tế về bảo vệ sự liêm chính trong quản trị doanh nghiệp và thị trường tài chính.
Các đại biểu nhất trí với đề xuất bổ sung quy định về chủ sở hữu hưởng lợi vào Luật Doanh nghiệp và các luật liên quan, đồng thời đề nghị nghiên cứu bổ sung quy định về trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật trong việc cập nhật và cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi cho cơ quan quản lý khi có yêu cầu.
Ngoài ra, cần bổ sung chế tài xử lý nghiêm trường hợp kê khai sai lệch thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi (xử phạt vi phạm hành chính, thậm chí hình sự nếu gây hậu quả nghiêm trọng) để đảm bảo hiệu lực thực thi. Việc hoàn thiện các quy định này sẽ tạo ra khuôn khổ pháp lý minh bạch, đồng bộ, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, giúp doanh nghiệp phát triển an toàn và giúp cơ quan quản lý đạt hiệu quả trong phòng, chống rủi ro tài chính.
Đại biểu Lê Đào An Xuân, đoàn Phú Yên, cho rằng việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp là bước đi cần thiết. Đối với các quy định về “chủ sở hữu hưởng lợi” và “cá nhân có quyền chi phối doanh nghiệp,” cần lượng hóa rõ các tiêu chí như quyền quyết định về tài chính, nhân sự chủ chốt hoặc chiến lược hoạt động để tăng cường minh bạch sở hữu, phù hợp với yêu cầu phòng, chống rửa tiền và các thông lệ quốc tế.
Về quy định về giá thị trường của phần vốn góp hoặc cổ phần, đại biểu Đỗ Đức Hiển, đoàn Tp.Hồ Chí Minh, cho rằng việc thay đổi cách xác định giá thị trường của cổ phiếu niêm yết, đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán (từ giá giao dịch liền kề trước đó sang giá giao dịch bình quân trong vòng 30 ngày) cần được cân nhắc kỹ lưỡng. Giá bình quân trong 30 ngày có thể không phản ánh chính xác giá trị tài sản.
Đại biểu Hiển cũng lưu ý rằng dự thảo Luật quy định nhiều phương thức khác nhau để xác định giá thị trường (giá bình quân, giá thỏa thuận, giá do tổ chức thẩm định giá xác định) nhưng chưa quy định cách thức lựa chọn trong trường hợp các phương thức cho ra kết quả khác nhau.
Việc xác định giá thị trường/giá trị hợp lý là một vấn đề phức tạp và đã được quy định chi tiết trong chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) mà Việt Nam đang nghiên cứu áp dụng bắt buộc cho một số loại doanh nghiệp (ví dụ công ty niêm yết và công ty có 100% vốn nước ngoài). Do đó, cần chỉnh lý các quy định này phù hợp với thông lệ quốc tế. Nếu vẫn quy định cách xác định giá thị trường như hiện nay, cần bổ sung cách tính giá thị trường nào sẽ được ưu tiên áp dụng khi các cách tính cho ra giá khác nhau để tránh vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện.
Source: VNECONOMY
This article has been adapted from its original source.