**Phương thức thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mới - Đánh giá tác động và triển vọng**


1. Kiên định Mục tiêu Độc lập Dân tộc và Chủ nghĩa Xã hội: Nền Tảng Thắng Lợi Kinh tế

Sự kiên định trong mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, một lựa chọn chiến lược được Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) xác lập từ khi thành lập, là nền tảng vững chắc cho mọi thành tựu trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”. Đặc trưng cốt lõi là xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,” với nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ.

Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng sản xuất vật chất là động lực chính cho sự biến đổi xã hội. Hoạt động sản xuất không chỉ tạo ra của cải mà còn thúc đẩy các mối quan hệ xã hội, sự hợp tác và cạnh tranh, từ đó nâng cao năng suất và thúc đẩy sự phát triển của xã hội loài người. Biến đổi xã hội, do đó, bắt nguồn từ sự biến đổi của nền sản xuất vật chất, kéo theo sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội và hệ thống giá trị.

Chủ nghĩa Mác nhấn mạnh rằng để tồn tại và phát triển, con người phải sản xuất ra của cải vật chất. Sự khác biệt giữa các thời đại kinh tế không nằm ở sản phẩm sản xuất mà ở phương thức và công cụ sản xuất. V.I. Lênin chỉ rõ năng suất lao động cao là thước đo ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản, là yếu tố quyết định thắng lợi của chế độ mới.

Để hiện thực hóa các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ, hoạt động sản xuất vật chất với năng suất lao động cao đóng vai trò then chốt. Thông qua đó, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, tạo ra những biến đổi xã hội tích cực, khắc phục hạn chế, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, hướng tới giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.

2. Kinh nghiệm Phát triển Kinh tế Tư nhân Quốc tế và Bài học cho Việt Nam

Thực tiễn phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân, tại Trung Quốc và Nga, cùng với 40 năm đổi mới ở Việt Nam, đã mang lại những bài học kinh nghiệm quý báu.

Tại Nga, Chính sách kinh tế mới (NEP) của V.I. Lênin từ năm 1921 đã thúc đẩy sự phát triển của nhiều thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân, giúp kinh tế Nga phát triển vượt bậc, trở thành cường quốc trong nhiều lĩnh vực.

Trung Quốc, với chính sách “Cải cách và Mở cửa” từ năm 1978, đã tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp tư nhân, công nhận kinh tế tư nhân là một phần quan trọng của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Kinh tế tư nhân Trung Quốc đã có bước phát triển mạnh mẽ, đóng góp hơn 60% GDP, tạo ra 80% việc làm ở thành thị và hơn 70% phát minh, sáng chế.

Tại Việt Nam, từ Đại hội VI của Đảng, kinh tế nhiều thành phần được thừa nhận chính thức. Các Đại hội VII, VIII, IX, X, XII, XIII tiếp tục khẳng định vai trò và khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển. Kinh tế tư nhân đã có những bước phát triển khởi sắc, đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách nhà nước, tạo việc làm cho xã hội, phát huy tiềm năng và lợi thế, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế.

Phát triển kinh tế tư nhân là sự lựa chọn quan trọng để thúc đẩy sản xuất vật chất, tạo ra sự biến đổi xã hội, nâng cao trình độ công nghệ, đào tạo nghề, gia tăng khả năng hấp thu vốn, thúc đẩy tăng năng suất lao động, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Vấn đề cốt lõi là tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với những thay đổi có tính bước ngoặt về tư duy, nhận thức, hành động.

3. Nghị quyết 68-NQ/TW: Động lực Phát triển Kinh tế Tư nhân

Ngày 04/5/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, với các mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp đột phá, định hình quan điểm mới của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Để thực hiện Nghị quyết 68, cần tập trung vào các công tác cấp bách:

  • Triển khai quyết liệt, hiệu quả: Quốc hội ban hành Nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân với các cơ chế, chính sách ưu đãi cụ thể. Lập Ban Chỉ đạo quốc gia do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban, định kỳ rà soát, đôn đốc việc thực hiện. Thúc đẩy đổi mới tư duy hành chính từ kiểm soát sang đồng hành, coi doanh nghiệp là đối tượng “phục vụ”.
  • Thể chế hoá quan điểm của Đảng: Nghiên cứu xây dựng Luật phát triển kinh tế tư nhân và sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật liên quan. Thiết lập hệ thống cạnh tranh công bằng, cơ chế thúc đẩy đầu tư và hỗ trợ tài chính, khuyến khích phát triển khoa học công nghệ. Thiết lập hệ thống bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia thị trường, phân biệt rõ ràng giữa tranh chấp kinh tế và tội phạm hình sự.
  • Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ: Triển khai gói tín dụng ưu đãi riêng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, thông qua quỹ bảo lãnh tín dụng nhà nước. Dành quỹ đất ưu tiên tại các khu công nghiệp công nghệ cao cho startup thuê với giá ưu đãi. Mở rộng mô hình sandbox pháp lý toàn quốc. Xây dựng trung tâm tư vấn pháp lý miễn phí hoặc trợ giá.
  • Xây dựng đội ngũ doanh nhân: Bảo vệ, hỗ trợ, khuyến khích, tôn vinh đội ngũ doanh nhân có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, ý thức tuân thủ pháp luật. Tạo điều kiện thuận lợi để doanh nhân tham gia phản biện chính sách, đóng góp vào quá trình hoạch định và thực thi chiến lược phát triển. Hỗ trợ ngân sách và chuyên môn để xây dựng các hiệp hội ngành nghề mạnh, độc lập. Khuyến khích thành lập Hội đồng doanh nhân tư nhân cấp quốc gia, tư vấn trực tiếp cho Chính phủ.

Source: VNECONOMY
This article has been adapted from its original source.