Tăng Trưởng Kinh Tế Hai Con Số - Tham Vọng Đối Mặt Thách Thức: Yêu Cầu Đổi Mới Mô Hình Phát Triển, Áp Lực Cải Cách Thể Chế.


Việt Nam: Tham Vọng Tăng Trưởng Hai Con Số và Những Thách Thức Vĩ Mô

Sau khi kiện toàn, Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị nhiệm kỳ mới đã thiết lập mục tiêu tăng trưởng GDP đầy tham vọng, kỳ vọng đạt mức 8% vào năm 2025 và hướng tới mức tăng trưởng bình quân hai con số trong giai đoạn 2026-2030. Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích kinh tế cảnh báo rằng việc hiện thực hóa mục tiêu này sẽ đối diện với những thách thức đáng kể trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đầy biến động hiện nay.

Ngưỡng Thu Nhập Trung Bình và Con Đường Phát Triển

Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, từ Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright, nhấn mạnh rằng với mức thu nhập bình quân đầu người hiện tại khoảng 4.000 USD, Việt Nam đang đứng trước một thời điểm then chốt. Quỹ đạo tăng trưởng trong 15 năm tới sẽ quyết định liệu Việt Nam có thể chuyển mình theo mô hình phát triển của các quốc gia Đông Bắc Á, trở thành một nền kinh tế phát triển, hay tiếp tục quỹ đạo tăng trưởng vừa phải của Đông Nam Á, duy trì thu nhập trung bình trong thời gian dài.

“Nếu duy trì mức tăng trưởng GDP 6%, Việt Nam dự kiến chỉ đạt mức thu nhập bình quân đầu người 15.000 USD. Mức tăng trưởng 7% sẽ chỉ đưa Việt Nam đến gần ngưỡng dưới của nhóm các quốc gia có thu nhập cao. Chỉ khi đạt mức tăng trưởng 10%, Việt Nam mới có thể đạt mục tiêu thu nhập bình quân đầu người 33.000 USD và gia nhập nhóm các quốc gia phát triển,” Tiến sĩ Tự Anh nhận định.

Với kịch bản tăng trưởng 7%/năm, thách thức đặt ra đối với tăng trưởng năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) là rất lớn. Theo kịch bản này, giai đoạn 2019-2030, tốc độ tăng TFP của Việt Nam phải đạt mức 4%, một mục tiêu đầy thách thức trong bối cảnh hiện tại. Thêm vào đó, Việt Nam đang bước vào giai đoạn già hóa dân số, với tốc độ tăng trưởng lực lượng lao động giảm từ 2% cách đây 20 năm xuống chỉ còn 0,5% hiện nay, và dự kiến sẽ tăng trưởng âm trong những năm tới. Sự già hóa dân số này chỉ có thể được bù đắp bằng tăng trưởng năng suất, một thách thức cốt lõi đối với Việt Nam.

Tái Cấu Trúc Kinh Tế và Thể Chế Phát Triển

Tiến sĩ Tự Anh nhấn mạnh rằng bài toán cốt lõi nằm ở việc chuyển hóa cơ cấu nền kinh tế và tái thiết thể chế phát triển. Ông đề xuất ba trụ cột nền tảng:

  1. Kinh tế thị trường đầy đủ với khu vực tư nhân là động lực tăng trưởng chính.
  2. Nhà nước kiến tạo có năng lực chính sách và thực thi mạnh mẽ.
  3. Thể chế dung hợp, kết hợp giữa kiểm soát quyền lực và khuyến khích sáng tạo.

Tiến sĩ Tự Anh đánh giá cao việc Bộ Chính trị xác định khu vực kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng nhất, nhưng nhấn mạnh cần đưa khu vực này lên vai trò trung tâm trong phân bổ nguồn lực và dẫn dắt đổi mới sáng tạo. Về vai trò của Nhà nước kiến tạo, ông nhấn mạnh cần xây dựng một bộ máy hành chính chuyên nghiệp, liêm chính và có trách nhiệm giải trình, tương tự như những gì đã được thực hiện ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Đối với thể chế dung hợp, cần có sự cân bằng giữa tập quyền chính trị và tự do dân sự, giữa quản trị pháp quyền và năng động thị trường, đồng thời kiểm soát tham nhũng và khuyến khích sáng tạo.

Đầu Tư và Thể Chế: Động Lực Tăng Trưởng

Tiến sĩ Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, cho rằng điều kiện tiên quyết để đạt tăng trưởng hai con số là đầu tư xã hội/GDP phải đạt tối thiểu 40%, hiệu quả đầu tư phải tăng, và chỉ số ICOR hiện tại phải giảm từ 6 xuống thấp hơn hoặc bằng 4. Điều này đòi hỏi phải tăng cường hiệu quả đầu tư, thúc đẩy đầu tư tư nhân vào sản xuất, đặc biệt là các ngành công nghiệp nền tảng và đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, đầu tư tư nhân mạnh mẽ không thể thực hiện được nếu vẫn còn những rào cản thể chế.

Tiến sĩ Cung khuyến nghị theo đuổi chính sách tài khóa mở rộng, với bội chi giới hạn không quá 5%, và tiết kiệm của Chính phủ đạt ít nhất 3% thông qua giảm chi thường xuyên. Ông cũng đồng tình với chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm về vai trò của Nhà nước trong điều tiết vĩ mô, tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi và bảo đảm công bằng xã hội. Ông nhấn mạnh việc tháo gỡ những điểm nghẽn về thể chế, phát huy sức mạnh từ nhân dân và mọi thành phần kinh tế bằng cách xây dựng một nền hành chính hiệu quả, năng động và môi trường đầu tư kinh doanh an toàn, minh bạch, chi phí thấp và đạt chuẩn quốc tế.

Tiến sĩ Cung đề xuất thực hiện chương trình quốc gia về khởi nghiệp và phát triển kinh tế tư nhân, đặt mục tiêu đến năm 2030 có ít nhất 1,5 triệu doanh nghiệp đang hoạt động. Đồng thời, hình thành các “điểm thể chế” đột phá vượt trội, thành lập các khu tự do đổi mới sáng tạo công nghệ cao, và áp dụng các ưu đãi về thủ tục hành chính, thuế, đất đai, chế độ visa và lưu trú.

Nguồn Nhân Lực và Công Nghệ: Nền Tảng Chuyển Đổi

Tiến sĩ Trần Anh Tuấn, Chủ tịch Hiệp hội Khoa học hành chính, nhấn mạnh vai trò then chốt của nguồn nhân lực và đề xuất chấn hưng nền giáo dục Việt Nam bằng cách tách bạch giáo dục và đào tạo, chuẩn hóa đội ngũ sư phạm và thực hiện cơ chế “đặt hàng” giữa doanh nghiệp và nhà trường. Ông cũng nhấn mạnh cần đào tạo nhân lực chất lượng cao trong các ngành mũi nhọn và thực hiện chính sách đãi ngộ mới để thu hút nhân tài.

PGS.TS. Lê Bộ Lĩnh, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, đề xuất hợp nhất các chiến lược hiện có thành “Chiến lược quốc gia thúc đẩy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đến 2045”, với trọng tâm là hỗ trợ doanh nghiệp công nghệ, tăng đầu tư R&D và phát triển hạ tầng số quốc gia.

Các chuyên gia nhấn mạnh rằng Việt Nam cần tự thiết kế một mô hình phát triển riêng, từ bỏ tư duy “bắt chước” và thay vào đó là “vượt trần công nghệ”. Tăng trưởng hai con số không phải là phép màu, mà là kết quả của một chiến lược tái cấu trúc tổng thể, được dẫn dắt bởi Nhà nước có năng lực, thị trường vận hành hiệu quả, khu vực tư nhân năng động và một thể chế pháp lý thân thiện với đổi mới.

Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 19-2025, phát hành ngày 12/05/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây : https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi-kinh-te-viet-nam


Source: VNECONOMY
This article has been adapted from its original source.