Di sản kinh tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Góc nhìn về khu vực tư nhân.


Trong bối cảnh quốc gia vừa giành độc lập, đối diện vô vàn thách thức nội tại và ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn ưu tiên giải quyết cấp bách nạn đói và nạn mù chữ. Tại phiên họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu Kế hoạch Kiến quốc, Người chỉ thị: “Chúng ta phải thực hiện ngay: 1. Làm cho dân có ăn; 2. Làm cho dân có mặc; 3. Làm cho dân có chỗ ở; 4. Làm cho dân có học hành.”

PHÁT TRIỂN KINH TẾ: NỀN TẢNG TỪ NHÂN DÂN

Để đạt được các mục tiêu trên, việc đẩy mạnh sản xuất và phát triển kinh tế là yếu tố then chốt. Trong bối cảnh đất nước còn non trẻ và đối mặt với nhiều khó khăn, việc thúc đẩy sản xuất và phát triển kinh tế đòi hỏi sự tham gia tích cực của toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tầm nhìn chiến lược, đã nhận thức rõ sự cần thiết phải huy động các nguồn lực sẵn có trong dân, nguồn lực mà chế độ phong kiến và thực dân trước đây đã không thể, thậm chí còn kìm hãm do chính sách bóc lột tàn tệ.

Trong giai đoạn đó, một bộ phận quan trọng của nguồn lực này là những người sản xuất kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tư nhân, bao gồm nông dân cá thể và các nhà tư bản công thương. Họ đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước và cần được khuyến khích, hỗ trợ song song với kinh tế quốc doanh.

Trong tác phẩm “Thường thức chính trị,” khi đề cập đến chính sách của Chính phủ đối với thành phần kinh tế này, Người viết: “Công tư đều lợi… Tư, những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho công cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên chính phủ cần giúp đỡ họ phát triển.”

Ưu tiên hàng đầu trong các nguồn lực đó là nguồn lực từ nông dân và nông nghiệp. Người đánh giá cao vai trò của nông dân và nông nghiệp, thể hiện trong thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam: “Nền kinh tế nước ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giầu thì nước ta giầu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh.” Người coi trọng nông nghiệp và nông dân vì họ là lực lượng lao động đông đảo, đóng vai trò quyết định trong việc cung cấp lương thực, thực phẩm, đồng thời đóng góp quan trọng vào sự phát triển đất nước.

Ngay sau khi giành được độc lập, để chống nạn đói, Người đã kêu gọi toàn dân, đặc biệt là nông dân, phát triển sản xuất. Trong thư gửi đồng bào toàn quốc nhân dịp năm mới 1946, Người viết: “Ra sức giồng giọt, chăn nuôi để cứu nạn đói hiện tại và tránh nạn sau này.” Vào thời kỳ đó, lực lượng sản xuất chủ yếu là nông dân cá thể, do đó Người chỉ đạo cán bộ về cách thức để nông dân sản xuất hiệu quả: “Đa số nông dân làm ăn riêng lẻ. Muốn sản xuất tốt, phải xây dựng tổ đổi công cho tốt.”

Nguồn lực quan trọng thứ hai mà Người đặc biệt chú trọng động viên và khuyến khích phát triển là các nhà sản xuất kinh doanh công thương nghiệp. Đây là lực lượng sản xuất hàng hóa tiêu dùng, thúc đẩy lưu thông trao đổi hàng hóa giữa công nghiệp và nông nghiệp, đồng thời đóng góp quan trọng vào tích lũy vốn cho sự phát triển kinh tế của đất nước.

Theo Người, sự phát triển của công thương nghiệp và kinh tế đất nước có mối quan hệ tương hỗ. Nền kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh công thương nghiệp phát triển. Người khẳng định: “Trong lúc các giới khác trong quốc dân ra sức hoạt động để giành lấy nền hoàn toàn độc lập của nước nhà thì giới Công - Thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng. Chính phủ, nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp đỡ giới Công Thương trong công cuộc kiến thiết này… Nền kinh tế quốc dân thịnh vượng nghĩa là các sự kinh doanh của các nhà công thương nghiệp thịnh vượng.”

Không chỉ hỗ trợ các nhà tư bản công thương sản xuất và kinh doanh thuận lợi, Người còn chỉ đạo để bộ phận này hoạt động bền vững và ổn định, hướng dẫn mối quan hệ hợp tác giữa chủ tư bản và công nhân làm thuê: “Chủ thợ đều lợi. Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột. Nhưng chính phủ ngăn cấm họ bóc lột công nhân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi của công nhân. Đồng thời vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý, không yêu cầu quá mức,” Người viết.

Sự quan tâm đến việc bồi dưỡng và phát huy các nguồn lực của kinh tế tư nhân của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn được thể hiện rõ trong báo cáo về dự thảo hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 18/12/1959. Trong báo cáo này, Người đã chỉ ra các hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất khi nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), bao gồm sở hữu của Nhà nước, sở hữu của hợp tác xã, sở hữu của người lao động riêng lẻ và một phần tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản. Người xác định để tiến lên CNXH, Nhà nước phải ưu tiên phát triển sở hữu Nhà nước, đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ sở hữu hợp tác phát triển. Đối với sở hữu của người lao động riêng lẻ và thợ thủ công, “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất, theo nguyên tắc tự nguyện.” “Với những nhà tư sản công thương, Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Đồng thời Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác.”

Từ những điều trên, có thể hiểu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với kinh tế tư nhân như sau:

  • Thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định kinh tế tư nhân có vai trò rất lớn trong việc phát triển sản xuất, kinh doanh để nâng cao đời sống của nhân dân và đóng góp xây dựng đất nước.
  • Thứ hai, trong thời kỳ quá độ lên CNXH, kinh tế tư nhân vẫn tồn tại và được hoạt động hợp pháp. Nhiệm vụ của Nhà nước là giúp đỡ họ phát triển sản xuất, kinh doanh và hướng dẫn họ cải tạo theo hướng đi lên CNXH.

NGUYÊN NHÂN COI TRỌNG NGUỒN LỰC KINH TẾ TƯ NHÂN

Tại sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại chú ý và coi trọng những nguồn lực thuộc thành phần kinh tế tư nhân? Có thể lý giải bằng các nguyên nhân sau:

  • Một là, xuất phát từ lòng thương yêu nhân dân sâu sắc. Người luôn xác định rõ trách nhiệm của Chính phủ là phải giúp đỡ, phục vụ nhân dân phát triển sản xuất, nâng cao đời sống. Người cho rằng Chính phủ ta là Chính phủ của nhân dân, chỉ có mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân. Lòng thương yêu, quý trọng nhân dân khiến Người luôn trăn trở về đời sống của mọi người dân, mong muốn “ai cũng cơm no áo ấm và được học hành.”
  • Hai là, Người thấm nhuần quan điểm của Lênin về sự phát triển nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Người đã phân tích sâu sắc thực trạng của kinh tế Việt Nam, trong đó có sự tồn tại của các bộ phận thuộc thành phần kinh tế tư nhân để có chính sách đúng đắn với bộ phận kinh tế này. Trong tác phẩm “Thường thức chính trị,” khi phân tích cơ cấu kinh tế của Việt Nam, Người đã chỉ ra các bộ phận của thành phần kinh tế tư nhân bao gồm: kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ, kinh tế tư bản của tư nhân bên cạnh các bộ phận của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể.
  • Ba là, xuất phát từ quan niệm và tác phong của Người là gần dân, quan tâm đến đời sống và sản xuất, buôn bán của người dân. Người yêu cầu rất cao trách nhiệm của Đảng lãnh đạo, không chỉ lo những công việc lớn lao mà còn phải quan tâm đến những điều nhỏ nhặt thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân.

Thực hiện di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã từng bước nhận thức được vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân và có đối sách phù hợp với đường lối kinh tế trong từng giai đoạn cách mạng.

NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN

  • Thời kỳ trước đổi mới: Đảng ta chủ trương dùng chính sách “sử dụng, hạn chế và cải tạo” với phương châm sử dụng cái hiện có và sử dụng để cải tạo tốt hơn, hạn chế phát triển mới.
  • Từ khi thực hiện đường lối Đổi mới: Đảng ta chủ trương phát triển mạnh mẽ, không hạn chế kinh tế tư nhân, cho phép kinh tế tư nhân hoạt động trong những ngành và lĩnh vực mà pháp luật không cấm, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của mọi người dân.

Sau các kỳ Đại hội, với các chính sách giúp đỡ, hỗ trợ, hướng dẫn của Nhà nước, kinh tế tư nhân đã có sự phát triển mạnh mẽ. Đại hội lần thứ XIII của Đảng và gần đây nhất, Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị đã xác định “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế… cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể giữ vai trò nòng cốt để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng thực chất, hiệu quả, đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, vươn lên phát triển thịnh vượng”.

Từ những quan điểm và chính sách của Đảng ta với kinh tế tư nhân, có thể rút ra một số nhận xét:

  • Nhận thức và chính sách của Đảng ta về kinh tế tư nhân là một quá trình từ thấp lên cao, một quá trình đấu tranh rất khó khăn trong nhận thức và trong thực tiễn dưới sự soi dọi của tư tưởng kinh tế và kinh tế tư nhân của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
  • Khẳng định bản chất cách mạng, không ngừng đổi mới của Đảng ta.

Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 20-2025, phát hành ngày 19/05/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây : https://postenp.phaha.vn/tap-chi-kinh-te-viet-nam/detail/1384


Source: VNECONOMY
This article has been adapted from its original source.