Chính sách Hoa Kỳ, Trung Quốc thay đổi: Rủi ro và cơ hội cho thương mại Việt Nam, tác động đa chiều cần đánh giá.


Kể từ khi nhậm chức, chính quyền Hoa Kỳ đã ban hành một loạt các sắc lệnh hành pháp trên nhiều lĩnh vực trọng yếu, trong đó Trung Quốc trở thành tâm điểm trong chính sách thương mại và đối ngoại. Đáng chú ý, Hoa Kỳ đã áp dụng mức thuế bổ sung 10% lên hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, có hiệu lực từ ngày 4 tháng 2, đồng thời áp thuế 25% đối với thép và nhôm nhập khẩu từ ngày 4 tháng 3, không loại trừ bất kỳ quốc gia nào. Bên cạnh đó, chính sách thuế quan “có đi có lại” được triển khai, hướng tới việc áp đặt mức thuế nhập khẩu tương đương với các quốc gia đang áp dụng đối với hàng hóa Hoa Kỳ.

Ngoài các biện pháp thuế quan, Hoa Kỳ còn tăng cường kiểm soát xuất khẩu công nghệ sang Trung Quốc, đặc biệt là chất bán dẫn, hạn chế đầu tư của các doanh nghiệp Hoa Kỳ vào lĩnh vực công nghệ của Trung Quốc, và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ một cách nghiêm ngặt. Những động thái này đã làm gia tăng căng thẳng trong quan hệ song phương Hoa Kỳ - Trung Quốc, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại.

Đáp trả, Trung Quốc đã áp thuế 15% đối với than và khí đốt tự nhiên hóa lỏng nhập khẩu từ Hoa Kỳ, cùng với mức thuế 10% đối với dầu mỏ, thiết bị nông nghiệp và ô tô phân khối lớn. Thêm vào đó, Trung Quốc hạn chế xuất khẩu một số nguyên liệu quý hiếm và tiến hành điều tra chống độc quyền đối với Google, đồng thời đưa hai doanh nghiệp Hoa Kỳ vào danh sách “thực thể không đáng tin cậy”.

Ông Nông Đức Lai, Tham tán Thương mại tại Trung Quốc, nhận định rằng, trong bối cảnh hiện tại, cả Trung Quốc và Hoa Kỳ đều là đối tác thương mại lớn, đồng thời là thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Do đó, cạnh tranh thương mại leo thang giữa hai cường quốc, cùng với các chính sách thương mại của họ, đều có tác động đa chiều đến thương mại và kinh tế Việt Nam.

Về tác động tích cực, ông Lai phân tích rằng các chính sách trên đã thúc đẩy các doanh nghiệp Trung Quốc và quốc tế tìm cách đa dạng hóa sản xuất nhằm tránh các rào cản thuế quan từ Hoa Kỳ. Điều này dẫn đến việc mở rộng đầu tư vào các quốc gia như Việt Nam, biến Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn nhờ chi phí lao động cạnh tranh và vị trí địa lý chiến lược. Đầu tư nước ngoài gia tăng cũng mở ra cơ hội để Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất phụ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Hơn nữa, Việt Nam có thể hưởng lợi từ việc Hoa Kỳ giảm nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc, đặc biệt trong các ngành dệt may, điện tử và máy móc. Tuy nhiên, điều này cũng làm tăng nguy cơ Việt Nam bị Hoa Kỳ điều tra chống bán phá giá. Đây vừa là thách thức, vừa là động lực để Việt Nam thúc đẩy ba đột phá chiến lược: cải thiện cơ sở hạ tầng, minh bạch hóa thủ tục hành chính và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Tuy nhiên, cũng có những tác động tiêu cực. Khi hàng hóa Trung Quốc bị hạn chế xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, các doanh nghiệp Trung Quốc sẽ tìm cách xuất khẩu sang các thị trường khác, trong đó có Việt Nam, gây sức ép cạnh tranh lên hàng hóa sản xuất trong nước. Đồng thời, hàng hóa Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với hàng hóa Trung Quốc tại thị trường nội địa do dư thừa nguồn cung từ Trung Quốc. Bên cạnh đó, trước tác động từ các chính sách thương mại của Hoa Kỳ, Trung Quốc có thể tiếp tục phá giá đồng Nhân dân tệ (NDT) so với đồng USD để thúc đẩy xuất khẩu, làm gia tăng áp lực cạnh tranh đối với hàng hóa Việt Nam.

Ngoài việc phá giá đồng NDT, Trung Quốc có thể sử dụng các phương thức như thương mại chuyển khẩu hoặc chuyển khâu lắp ráp hàng hóa ra nước ngoài thông qua đầu tư để xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Hoa Kỳ và các quốc gia áp thuế cao. Điều này gây rủi ro cho các quốc gia mà Trung Quốc hướng tới đầu tư khi chính quyền Hoa Kỳ tăng cường truy xuất nguồn gốc hàng hóa. Khi chuyển hướng và tăng cường xuất khẩu sang các thị trường ngoài Hoa Kỳ và EU, các doanh nghiệp Trung Quốc có thể hạ thấp tiêu chuẩn hàng hóa để phù hợp với nhu cầu của các thị trường này và cạnh tranh đơn hàng với doanh nghiệp các nước khác, trong đó có Việt Nam. Tác động này dự kiến sẽ kéo dài trong trung hạn.

Để giảm thiểu những tác động tiêu cực, ông Lai khuyến nghị các doanh nghiệp Việt Nam cần theo dõi sát sao diễn biến và động thái chính sách của các đối tác lớn (Hoa Kỳ, Trung Quốc) có thể ảnh hưởng đến Việt Nam. Từ đó, các doanh nghiệp cần đánh giá, đưa ra dự báo và xây dựng các chính sách ứng phó kịp thời và hiệu quả. Đồng thời, cần theo dõi và cập nhật thông tin thị trường và diễn biến các chính sách của Trung Quốc đang triển khai thực thi, cũng như nắm bắt thông tin về các chính sách mới của Trung Quốc để có biện pháp ứng phó, phòng vệ và phản ứng kịp thời với thị trường và chính sách của đối tác. Cần xây dựng kế hoạch dự phòng cho các kịch bản như tăng thuế quan hoặc gián đoạn chuỗi cung ứng.

Bên cạnh đó, cần đa dạng hóa thị trường và đối tác, mở rộng xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường truyền thống như ASEAN, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, và khai thác tiềm năng thị trường Trung Đông và Châu Phi, thay vì chỉ tập trung và phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Tận dụng các hiệp định thương mại tự do (EVFTA, CPTPP) để giảm sự phụ thuộc vào một thị trường duy nhất.

Ông Lai nhấn mạnh rằng các doanh nghiệp cần nâng cao năng lực cạnh tranh bằng cách đầu tư vào đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt trong lĩnh vực kỹ thuật và quản lý. Đồng thời, cần chủ động tuân thủ các quy định về môi trường và lao động để tránh các rào cản thương mại. Các doanh nghiệp cũng cần nâng cao năng lực sản xuất, đầu tư vào tự động hóa để giảm lao động thủ công và đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế; áp dụng công nghệ blockchain để truy xuất nguồn gốc hàng hóa, đặc biệt là nông sản, giải quyết vấn đề mã số vùng trồng.


Source: VNECONOMY
This article has been adapted from its original source.