Đồng bộ hóa triển khai - Giải pháp tăng trưởng năng lượng tái tạo theo Quy hoạch điện VIII được xúc tiến, mục tiêu đạt công suất [X] GW vào năm [YYYY].


Chuyển dịch năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch sang các nguồn tái tạo và năng lượng mới là một xu hướng địa chính trị và kinh tế không thể đảo ngược. Việt Nam đang tích cực triển khai quá trình chuyển đổi này nhằm đạt mục tiêu Net Zero vào năm 2050, thông qua việc xây dựng khung chính sách, chiến lược và quy hoạch chi tiết. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi này đặt ra nhiều thách thức đòi hỏi các giải pháp toàn diện.

NHỮNG THÁCH THỨC TRONG CHUYỂN DỊCH NĂNG LƯỢNG XANH

Tại hội thảo “Giải pháp chuyển đổi năng lượng hướng tới Net Zero” do Báo Lao Động và Bộ Công Thương phối hợp tổ chức ngày 29/5, PGS. TS Đặng Trần Thọ, Viện trưởng Viện Công nghệ Năng lượng (Đại học Bách Khoa Hà Nội), nhấn mạnh sự thiếu đồng bộ và ổn định của khung chính sách hiện hành là một rào cản đáng kể. Mặc dù Quy hoạch điện VIII điều chỉnh đã được phê duyệt và các cam kết quốc tế về phát thải ròng bằng không đã được đưa ra, song vẫn thiếu một đạo luật toàn diện về năng lượng tái tạo hoặc chuyển đổi năng lượng. Điều này dẫn đến sự phân mảnh trong các chính sách, thiếu tính ràng buộc pháp lý và khó khăn trong việc triển khai đồng bộ giữa trung ương và địa phương. Đặc biệt, việc chậm trễ ban hành cơ chế giá điện sau FIT đã làm suy giảm niềm tin của nhà đầu tư và trì hoãn nhiều dự án trọng điểm.

Ngoài ra, sự tăng trưởng nhanh chóng của điện mặt trời và điện gió trong giai đoạn 2018-2020 đã bộc lộ những hạn chế trong hạ tầng lưới điện, đặc biệt là hệ thống điện nền và lưu trữ. Tính chất không ổn định của các nguồn năng lượng tái tạo, phụ thuộc vào yếu tố thời tiết và thời gian, đặt ra thách thức lớn đối với hệ thống điện Việt Nam vốn dựa trên mô hình truyền thống, thiếu linh hoạt và khả năng điều tiết nhanh. Thiếu hụt các hệ thống lưu trữ năng lượng quy mô lớn càng làm trầm trọng thêm vấn đề này.

Một thách thức khác, thường bị đánh giá thấp, là hạn chế về kỹ thuật và công nghệ. Hệ thống năng lượng Việt Nam hiện nay chưa được thiết kế để tích hợp hiệu quả tỷ trọng cao các nguồn điện biến động như điện mặt trời và điện gió. Điều này gây khó khăn trong điều độ, duy trì tần số và ổn định điện áp khi nguồn năng lượng tái tạo phát điện không đồng bộ với nhu cầu phụ tải.

Khả năng huy động vốn cho các dự án năng lượng xanh cũng đang đối mặt với nhiều trở ngại. Việt Nam chưa có một cơ chế tín dụng xanh được chuẩn hóa và triển khai rộng rãi. Các ngân hàng trong nước vẫn còn thận trọng trong việc cấp vốn cho các dự án năng lượng tái tạo, trong khi các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn vay trung và dài hạn.

SÁU NHÓM GIẢI PHÁP CẦN TRIỂN KHAI

Để thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo và chuyển đổi năng lượng thành công, các chuyên gia nhấn mạnh sự cần thiết của việc cải cách thể chế, làm chủ công nghệ, thu hút đầu tư tư nhân và quốc tế, đồng thời nâng cao năng lực giám sát và điều hành.

Ông Đoàn Ngọc Dương, Phó Cục trưởng Cục Điện lực, Bộ Công Thương, đề xuất sáu giải pháp chính để đạt được mục tiêu tăng trưởng nguồn điện tái tạo theo Quy hoạch điện VIII điều chỉnh và hướng tới Net Zero vào năm 2050:

  1. Tạo lập môi trường đầu tư minh bạch và thông thoáng: Luật Điện lực số 61/2024/QH15 (có hiệu lực từ ngày 01/02/2025) và các văn bản dưới luật đã giải quyết những nút thắt liên quan đến thủ tục đầu tư các dự án điện, công khai quy hoạch và danh mục dự án đầu tư, đồng thời đưa ra các cơ chế khuyến khích cho các dự án năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, đặc biệt là điện mặt trời áp mái, điện gió ngoài khơi, lưu trữ năng lượng và hydrogen xanh. Cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý một cách đồng bộ, linh hoạt và hiệu quả, cũng như xây dựng chính sách khuyến khích sản xuất và sử dụng năng lượng tái tạo, năng lượng mới để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

  2. Phát triển lưới điện thông minh và linh hoạt: Quyết định số 768/QĐ-TTg ước tính nhu cầu vốn đầu tư cho lưới điện truyền tải giai đoạn 2026-2030 là khoảng 18,1 tỷ USD, bao gồm chi phí cho lưới điện giải tỏa công suất và kết nối các khu vực với công nghệ hiện đại. Cần đẩy nhanh đầu tư vào các đường dây truyền tải chiến lược, hiện đại hóa lưới điện với công nghệ số và thông minh để khai thác và sử dụng tối ưu các nguồn điện năng lượng tái tạo trên toàn quốc.

  3. Chuyển đổi năng lượng trong các ngành tiêu thụ điện lớn: Ngành công nghiệp cần thúc đẩy sản xuất xanh (thép xanh, xi măng xanh), sử dụng năng lượng sạch trong khu công nghiệp. Giao thông cần điện khí hóa mạnh mẽ, phát triển xe điện và hạ tầng trạm sạc. Đồng thời, cần đẩy mạnh tuyên truyền và thực hiện các quy định, giải pháp về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.

  4. Xem xét vai trò của điện hạt nhân: Điện hạt nhân là nguồn điện ổn định, không phát thải CO2, có thể đóng vai trò là nguồn nền cho hệ thống điện với tỷ lệ nguồn năng lượng tái tạo lớn. Quyết định số 768/QĐ-TTg đặt mục tiêu đạt khoảng 4.000-6.400 MW điện hạt nhân vào năm 2030-2035 và khoảng 10.500-14.000 MW vào năm 2050. Việt Nam đã tiếp tục thực hiện chủ trương đầu tư nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1, 2 trên cơ sở nghiên cứu và hợp tác với các đối tác sở hữu công nghệ hiện đại, an toàn và tin cậy trên thế giới.

  5. Xây dựng hệ thống cơ chế chính sách và thị trường điện hiện đại: Cần khẩn trương hoàn thiện thị trường điện cạnh tranh, xây dựng cơ chế tín chỉ carbon, định giá phát thải, thúc đẩy tài chính xanh và các hình thức hợp tác công tư để huy động nguồn lực tư nhân và quốc tế cho chuyển đổi năng lượng. Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đóng vai trò then chốt, bao gồm đầu tư vào các công nghệ như lưu trữ năng lượng, AI trong điều hành hệ thống điện, các vật liệu mới và công nghệ sản xuất hydrogen xanh. Cần đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để phục vụ quá trình chuyển đổi.

  6. Đảm bảo công bằng trong chuyển đổi: Mỗi chính sách cần đặt con người làm trung tâm, hỗ trợ người lao động trong ngành than, các lĩnh vực sử dụng nhiều năng lượng truyền thống, các cộng đồng dễ bị tổn thương và các doanh nghiệp nhỏ thông qua đào tạo, đào tạo lại và chuyển đổi sinh kế để không ai bị bỏ lại phía sau trên hành trình hướng tới Net Zero.

Ông Dương kết luận rằng với tầm nhìn, sự quyết tâm và sự chung tay của Nhà nước, doanh nghiệp, người dân và cộng đồng quốc tế, Việt Nam có thể thực hiện thành công tiến trình chuyển đổi năng lượng, đảm bảo an ninh năng lượng cho phát triển kinh tế, đạt mục tiêu tăng trưởng 8% trong năm 2025 và hai con số trong giai đoạn 2026-2030, đồng thời đạt mục tiêu Net Zero một cách bền vững và chủ động.

Từ khóa: điện, điện lực, kinh tế xanh, năng lượng tái tạo, năng lượng xanh


Source: VNECONOMY
This article has been adapted from its original source.