
Phân loại Quốc gia theo Thu nhập và Mục tiêu Tăng trưởng Kinh tế Việt Nam - Phân tích và Triển vọng.
Trong thời gian gần đây, đã xuất hiện nhiều ấn phẩm trên các phương tiện truyền thông Việt Nam bàn luận về khả năng Việt Nam đạt ngưỡng “thu nhập trung bình cao” hoặc “thu nhập cao” trong tương lai. Tuy nhiên, một số phân tích thiếu chính xác về phương pháp phân loại các nền kinh tế theo mức thu nhập của Ngân hàng Thế giới (World Bank - WB), dẫn đến những nhận định khác biệt đáng kể. Bài viết này nhằm mục đích chuẩn hóa thông tin và cập nhật phân loại của WB cho năm tài chính 2025 (FY2025), đồng thời đưa ra các dự báo về triển vọng kinh tế Việt Nam. Cụ thể, bài viết phân tích khả năng Việt Nam vượt ngưỡng thu nhập trung bình thấp vào cuối năm 2026, và ước tính tốc độ tăng trưởng GDP cần thiết để Việt Nam đạt được mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045.
PHÂN LOẠI CÁC QUỐC GIA THEO THU NHẬP CỦA WB
WB phân loại các nền kinh tế thành bốn nhóm dựa trên mức thu nhập: thu nhập thấp, thu nhập trung bình thấp, thu nhập trung bình cao và thu nhập cao. Danh sách phân loại được cập nhật hàng năm vào ngày 1 tháng 7, dựa trên Tổng Thu nhập Quốc gia (GNI) bình quân đầu người, sử dụng tỷ giá hối đoái theo phương pháp Atlas của WB, tính từ hai năm trước năm tài chính hiện tại (n-2). Các nhóm thu nhập được giữ cố định trong suốt năm tài chính, bất kể các điều chỉnh đối với ước tính GNI/người.
Lưu ý quan trọng khi nghiên cứu phân loại của WB:
- Mục đích phân loại: WB sử dụng phân loại này để xác định chính sách cho vay. Các quốc gia thu nhập thấp được hưởng các điều kiện vay ưu đãi từ Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA), nhưng phải tuân thủ các ràng buộc đi kèm. Các quốc gia thu nhập trung bình và cao dần chuyển sang vay từ Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (IBRD), với điều kiện vay sát thị trường hơn.
- Sử dụng rộng rãi: Phân loại của WB được sử dụng rộng rãi bên ngoài WB, làm cơ sở cho phân bổ nguồn lực và quyết định chính sách của nhiều quốc gia. Các quốc gia quan tâm đến việc được xếp hạng cao hơn để thể hiện sự phát triển kinh tế và nâng cao vị thế quốc tế.
- Lý do sử dụng GNI/người: Mặc dù không hoàn toàn phản ánh mức độ phát triển hoặc phúc lợi của một quốc gia, GNI/người là một chỉ số hữu ích, dễ sử dụng và có tương quan chặt chẽ với các thước đo phi tiền tệ về chất lượng cuộc sống.
- Hạn chế của GNI: GNI có thể bị đánh giá thấp ở các nền kinh tế có nhiều hoạt động tự cung tự cấp và không phản ánh sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. Phương pháp Atlas dựa trên tỷ giá hối đoái chính thức, không tính đến sự khác biệt về mức giá trong nước.
- Nguồn dữ liệu: Ước tính GNI được thu thập từ các nhà kinh tế của WB tại mỗi quốc gia, dựa trên dữ liệu chính thức do các quốc gia công bố. Quy mô dân số ước tính từ nhiều nguồn, bao gồm cả Liên hợp quốc.
- Phương pháp Atlas: WB sử dụng phương pháp Atlas để chuyển đổi tiền tệ sang USD, sử dụng hệ số chuyển đổi Atlas nhằm làm dịu các biến động tỷ giá hối đoái, bằng cách sử dụng trung bình động ba năm (MA3) và được điều chỉnh theo lạm phát.
- Ngưỡng GNI/người: Các ngưỡng phân loại được cập nhật hàng năm theo lạm phát, sử dụng sự thay đổi trong bộ giảm phát SDR (Quyền rút vốn đặc biệt) từ các nền kinh tế đại diện trong SDR của IMF. Ngưỡng được làm tròn đến 5 USD gần nhất, ước tính GNI/người được làm tròn đến 10 USD gần nhất.
- Ngưỡng FY2025: Đối với FY2025, nhóm thu nhập thấp có GNI/người nhỏ hơn hoặc bằng 1.145 USD; thu nhập trung bình thấp từ 1.146-4.515 USD; thu nhập trung bình cao từ 4.516-14.005 USD; và thu nhập cao trên 14.005 USD.
SỰ CHUYỂN DỊCH THEO NGƯỠNG PHÂN NHÓM MỚI
Trong FY2025, có sự chuyển dịch giữa các nhóm so với FY2024:
- Ba quốc gia chuyển từ thu nhập trung bình cao lên thu nhập cao: Bulgaria, Cộng hòa Palau và Nga.
- Bốn quốc gia chuyển từ thu nhập trung bình thấp lên thu nhập trung bình cao: Algeria, Iran, Mông Cổ và Ukraine.
- Bờ Tây và Dải Gaza là nền kinh tế duy nhất giảm thứ hạng, trở lại nhóm thu nhập trung bình thấp.
Các phân tích cho thấy WB cập nhật ngưỡng phân loại hàng năm, trong khi các quốc gia cập nhật số liệu kinh tế của mình. Các quốc gia có thu nhập gần ngưỡng phân loại có thể dễ dàng chuyển đổi giữa các nhóm.
ĐÁNH GIÁ VỀ KINH TẾ VIỆT NAM TRONG PHÂN NHÓM CỦA WB
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu kể từ khi bắt đầu công cuộc Đổi mới năm 1986, chuyển từ nhóm thu nhập thấp lên thu nhập trung bình thấp từ ngày 1 tháng 7 năm 2009 (FY2010). Năm 2023, GNI/người của Việt Nam là 4.110 USD, cao hơn bình quân các nước thu nhập trung bình thấp, nhưng thấp hơn Philippines, Indonesia, Thái Lan và thấp hơn nhiều so với Malaysia, Trung Quốc, Brunei, Hàn Quốc và Singapore. Theo phân nhóm từ 1/7/2024-30/6/2025, Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2025: “Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp”. Để đạt được mục tiêu này, GNI/người của Việt Nam năm 2024 phải vượt qua ngưỡng thu nhập trung bình cao áp dụng cho FY2026 của WB.
Phân tích cho thấy, trong giai đoạn 1992-2023, tốc độ tăng trưởng GDP/người và GNI/người của Việt Nam luôn cao hơn tăng trưởng ngưỡng GNI để là quốc gia có thu nhập trung bình cao. Theo Tổng cục Thống kê, GDP/người năm 2024 theo giá hiện hành ước đạt 4.700 USD, tăng 8,72% so với năm 2023.
Tuy nhiên, các kịch bản ước tính cho thấy Việt Nam chưa thể vượt qua mức thu nhập trung bình thấp vào cuối năm 2025. Với diễn biến tình hình kinh tế, chính trị hiện tại, nhiều khả năng là GNI/người của Việt Nam năm 2025 so với năm trước sẽ có kết quả tốt hơn năm 2024. Do đó, tới cuối năm 2026 thì Việt Nam gần như chắc chắn sẽ vượt qua mức thu nhập trung bình thấp (tức là gia nhập nhóm quốc gia có thu nhập trung bình cao).
VIỆT NAM SẼ TRỞ THÀNH QUỐC GIA CÓ THU NHẬP CAO KHI NÀO?
Nghị quyết Đại hội XIII cũng xác định mục tiêu đến năm 2045: “Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”. Để đạt được mục tiêu này, GNI/người của Việt Nam năm 2044 phải đạt mức thấp nhất là ngưỡng thu nhập cao do WB công bố cho FY2046.
Xét về số liệu lịch sử, mức tăng trưởng trung bình động (MA) hàng năm của 21 năm gần nhất trong giai đoạn 1990-2023 của một số chỉ tiêu cho thấy, tăng trưởng GNI/người của Việt Nam thường cao hơn tăng trưởng GDP.
Để dự báo thời điểm Việt Nam trở thành quốc gia thu nhập cao, cần trả lời hai câu hỏi:
- Đến FY2046, WB sẽ công bố ngưỡng thu nhập cao là bao nhiêu? Giả định trường hợp khó khăn nhất là WB công bố ngưỡng thu nhập cao FY2046 với tăng trưởng MA21 năm 2044 ở mức cao nhất trong giai đoạn 2010-2023 (1,0347). Khi đó, ngưỡng thu nhập cao FY2046 sẽ là 28.651,5 USD.
- Để GNI/người của Việt Nam năm 2044 vượt qua mức 28.652 USD thì tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 2024-2044 phải đạt mức trung bình là bao nhiêu? GNI/người của Việt Nam giai đoạn 2024-2044 phải đạt tốc độ tăng trưởng thấp nhất là 9,69%/năm.
Ước tính tốc độ tăng trưởng GDP thấp nhất để GNI/người Việt Nam giai đoạn 2024-2044 tăng trưởng trung bình là 9,69%/năm qua hai kịch bản cho thấy, trong giai đoạn 2024-2044, kinh tế Việt Nam cần đạt mức tăng trưởng trung bình GDP (giá cố định) khoảng 5,0%/năm.
Tuy nhiên, với những động lực tăng trưởng mới, có thể dự báo về thời gian Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập cao theo cách tiếp cận khác:
Nếu kinh tế - chính trị thế giới và Việt Nam từ 2025-2044 không có biến động quá lớn so với tình hình như giai đoạn 2017-2024, có thể dự báo tăng trưởng MA21 năm 2044 của các chỉ tiêu như sau: ngưỡng thu nhập cao FY2046 ở mức cao nhất của tăng trưởng MA21 trong giai đoạn 2010-2023 (1,0347), khi đó ngưỡng thu nhập cao FY2046 sẽ là 28.651,5 USD; tăng trưởng GDP và GNI/người của Việt Nam được dự báo theo các phương án:
- Phương án 1 (cơ sở): Tăng trưởng GDP và GNI/người của Việt Nam lần lượt là 1,06 và 1,11. Khi đó, GNI/người của Việt Nam năm 2044 sẽ là 36.871,1 USD, vượt ngưỡng thu nhập cao FY2046.
- Phương án 2: Tăng trưởng GDP của Việt Nam ở mức 1,07; GNI/người là 1,1225. Khi đó, GNI/người của Việt Nam năm 2044 sẽ là 46.516,2 USD, vượt ngưỡng thu nhập cao FY2046 rất nhiều.
- Phương án 3: Tăng trưởng GDP của Việt Nam ở mức 1,08; GNI/người là 1,1330. Khi đó, GNI/người của Việt Nam năm 2044 sẽ là 56.551,5 USD, đạt gần gấp đôi ngưỡng thu nhập cao FY2046.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra kết luận là: Nếu kinh tế - chính trị thế giới và Việt Nam từ 2025-2044 không có biến động quá lớn so với tình hình như giai đoạn 2017-2024, Việt Nam sẽ trở thành quốc gia có thu nhập cao vào cuối năm 2045 nếu kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng trung bình GDP là 5,0%/năm trong giai đoạn 2024-2044. Nếu tăng trưởng trung bình GDP đạt mức cao hơn 5%/năm càng nhiều, thì Việt Nam sẽ trở thành quốc gia có thu nhập cao trước năm 2045 càng sớm hơn.
Những dự báo trên cho thấy, mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đến năm 2045 là hoàn toàn khả thi. Đồng thời, khuyến cáo không nên quá “nóng vội” mà huy động quá nhiều nguồn lực hoặc can thiệp quá mạnh vào nền kinh tế, dẫn tới sử dụng nguồn lực kém hiệu quả hoặc gây bất ổn kinh tế vĩ mô.
Source: VNECONOMY
This article has been adapted from its original source.