
Đường sắt Việt Nam: Đề xuất đặt hàng 4 nhóm sản phẩm công nghiệp trọng yếu, tập trung nâng cao hiệu quả khai thác.
Dưới đây là bản viết lại của nội dung tin tức tài chính, sử dụng ngôn ngữ chuyên nghiệp và chính xác, phù hợp với giới tài chính và kinh doanh, bằng tiếng Việt:
Hà Nội, ngày 31 tháng 5 năm 2025, 07:58 (GMT) – Chính phủ ban hành danh mục sản phẩm, dịch vụ công nghiệp đường sắt thực hiện theo phương thức đặt hàng và giao nhiệm vụ, tạo tiền đề tăng cường nội địa hóa ngành.
Bộ Xây dựng thông báo, mạng lưới đường sắt quốc gia Việt Nam hiện bao gồm 7 tuyến chính và 12 tuyến nhánh, tổng chiều dài 2.703 km. Mặc dù ngành công nghiệp đường sắt đã đạt được những thành tựu nhất định, song chủ yếu vẫn tập trung vào bảo trì, sửa chữa các phương tiện tốc độ thấp và sản xuất vật tư, thiết bị cơ khí có công nghệ lạc hậu. Các tuyến đường sắt đô thị hiện hữu như Cát Linh - Hà Đông, Nhổn - Ga Hà Nội và Bến Thành - Suối Tiên đang trong giai đoạn bảo hành hoặc chưa phát sinh nhu cầu thay thế thiết bị.
Hiện nay, có 35 cơ sở tham gia vào ngành công nghiệp đường sắt, tuy nhiên, phần lớn máy móc và linh kiện vẫn phải nhập khẩu, gây ra tình trạng thiếu đồng bộ và lạc hậu. Hệ thống công nghiệp đường sắt chưa đủ năng lực tham gia vào các dự án điện khí hóa do thiếu trang thiết bị, công nghệ và nguồn nhân lực chuyên môn.
Việc xây dựng và ban hành danh mục sản phẩm, dịch vụ công nghiệp đường sắt theo phương thức đặt hàng và giao nhiệm vụ là một bước đi quan trọng nhằm thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển ngành đường sắt hiện đại, đồng bộ và bền vững. Mục tiêu là khắc phục những hạn chế về thể chế và tạo động lực mới cho sự phát triển của ngành.
Danh mục này sẽ là cơ sở để các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp nhà nước giao nhiệm vụ hoặc đặt hàng sản phẩm, dịch vụ cho các doanh nghiệp trong nước, thúc đẩy nghiên cứu, chế tạo, sản xuất và phát triển sản phẩm, từ đó tăng dần tỷ lệ nội địa hóa. Ưu tiên trước mắt là các vật tư, thiết bị và phụ tùng đường sắt có tiềm năng thị trường lớn, phù hợp với năng lực công nghệ, trình độ sản xuất và nguồn nhân lực của Việt Nam.
Cùng với các cơ chế chính sách và pháp lý đang được triển khai đồng bộ, như Dự án Luật Đường sắt (sửa đổi), các Nghị quyết số 172/2024/QH15, Nghị quyết số 187/2025/QH15, Nghị quyết số 188/2025/QH15 vừa được Quốc hội thông qua, Nghị định quy định về tiêu chí lựa chọn tổ chức, doanh nghiệp Nhà nước được giao nhiệm vụ hoặc tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam được đặt hàng cung cấp dịch vụ, hàng hóa công nghiệp đường sắt, nghiên cứu, ứng dụng, nhận chuyển giao công nghệ, , Danh mục sản phẩm, dịch vụ công nghiệp đường sắt thực hiện theo phương thức đặt hàng, giao nhiệm vụ được ban hành sẽ là cơ sở để đảm bảo doanh nghiệp Việt Nam từng bước làm chủ được thiết kế hệ thống; xây dựng, bảo trì, sửa chữa công trình đường sắt, sản xuất được vật tư, vật liệu cho công trình; vận hành, bảo trì, sửa chữa, lắp ráp được đầu máy đường sắt dưới 200km/h; vận hành, bảo trì, sửa chữa đoàn tàu tốc độ cao; sản xuất, bảo trì, sửa chữa được toa xe có vận tốc khai thác dưới 200km/h và toa xe đường sắt đô thị; lắp đặt, bảo trì, sửa chữa và sản xuất được vật tư, phụ tùng, phụ kiện, phần mềm… của hệ thống thông tin tín hiệu đường sắt dưới 200km/h (bao gồm đường sắt đô thị); vận hành, bảo trì, sửa chữa được hệ thống thông tin, tín hiệu đường sắt tốc độ cao.
Theo dự thảo, Bộ Xây dựng đề xuất 4 sản phẩm, dịch vụ công nghiệp đường sắt thực hiện theo phương thức giao nhiệm vụ hoặc đặt hàng, bao gồm:
- Nghiên cứu, xây dựng tiêu chuẩn áp dụng đối với dịch vụ, hàng hóa công nghiệp đường sắt.
- Nghiên cứu, phát triển sản phẩm, hàng hóa công nghiệp đường sắt.
- Đánh giá sự phù hợp tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của sản phẩm, hàng hóa công nghiệp đường sắt.
- Đào tạo, tiếp nhận chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực đường sắt.
Bên cạnh đó, 4 sản phẩm, dịch vụ công nghiệp đường sắt thực hiện theo phương thức đặt hàng bao gồm:
- Sản xuất ray, ghi và phụ kiện liên kết.
- Sản xuất, lắp ráp hệ thống thông tin, hệ thống tín hiệu đường sắt.
- Sản xuất, lắp ráp hệ thống cấp điện sức kéo đường sắt.
- Sản xuất, lắp ráp phương tiện giao thông đường sắt.
Cục Đường sắt Việt Nam cho biết, việc gia hạn thời gian lưu hành của đầu máy và toa xe đến hết ngày 31/12/2030 và lộ trình chuyển đổi sang sử dụng năng lượng sạch đòi hỏi phải thay thế tối thiểu 140 đầu máy diesel và 2.228 toa xe (gồm 259 toa xe khách và 1.969 toa xe hàng) sau năm 2030.
Để đáp ứng nhu cầu vận hành hệ thống đường sắt hiện tại và các tuyến xây mới theo quy hoạch, ngành đường sắt dự kiến sẽ cần đầu tư đóng mới hàng chục đầu máy và toa xe trong cả giai đoạn trước và sau năm 2030. Cụ thể:
- Đến năm 2030:
- Đối với đường sắt khổ 1.000mm, ngoài 248 đầu máy còn niên hạn, cần đóng mới 15 đầu máy và 250 toa xe (50 toa khách và 200 toa hàng).
- Đối với đường sắt khổ 1.435mm (tuyến mới), cần đóng mới 26 đầu máy diesel hoặc lai diesel - điện và 1.760 toa xe (195 toa cho đường sắt quốc gia, 280 toa cho đường sắt đô thị và 1.285 toa hàng).
- Giai đoạn đến năm 2045:
- Đối với đường sắt khổ 1.000mm, ngoài 108 đầu máy còn niên hạn, cần đóng mới 150 đầu máy để thay thế các loại cũ và lạc hậu, cùng với 2.000 toa xe (200 toa khách và 1.800 toa hàng).
- Đối với đường sắt khổ 1.435mm (tuyến mới), cần đầu tư 160 đầu máy (150 đầu máy điện, bao gồm 74 đầu máy cho đường sắt tốc độ cao, và 10 đầu máy răng cưa cho tuyến Tháp Chàm - Đà Lạt khổ 1.000mm) và 10.144 toa xe (1.184 toa cho đường sắt tốc độ cao, 960 toa cho đường sắt đô thị và 8.000 toa hàng cho đường sắt quốc gia).
Source: TAPCHICONGTHUONG
This article has been adapted from its original source.