Tri thức, sáng tạo và công nghệ: Nền tảng để Việt Nam vươn lên


Tại hội thảo “Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo: Yếu tố quyết định để Việt Nam trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2045,” TS. Nguyễn Xuân Khoát, Chánh Văn phòng Viện Kinh tế và Pháp luật Quốc tế, ghi nhận tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2024 đạt 7,09%, một thành tích đáng chú ý trong bối cảnh khu vực châu Á. Tuy nhiên, sang năm 2025, nền kinh tế sẽ đối diện với các thách thức vĩ mô như suy giảm tăng trưởng toàn cầu, gia tăng chủ nghĩa bảo hộ thương mại và sự cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo.

KHUNG CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐỔI MỚI CHƯA ĐỦ MẠNH

TS. Nguyễn Xuân Khoát nhấn mạnh rằng để đạt mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam cần các giải pháp đột phá căn bản, tập trung vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. TS. Nguyễn Hữu Xuyên, Phó Viện trưởng phụ trách Viện Chiến lược và Chính sách khoa học và công nghệ, đồng tình nhưng lưu ý tiềm năng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa được khai thác tương xứng với vai trò chiến lược trong việc nâng cao năng suất lao động và chất lượng tăng trưởng. Sự thiếu đồng bộ giữa các văn bản pháp luật liên quan đến khoa học và công nghệ, tài chính công, đầu tư công và ngân sách là một trở ngại. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực công nghệ cao còn hạn chế, đặc biệt là chuyên gia trong các lĩnh vực công nghệ lõi và công nghệ số. Cơ sở hạ tầng số chưa đáp ứng nhu cầu phát triển. Tồn tại khoảng cách đáng kể giữa chính sách, doanh nghiệp và thị trường. Các cơ chế thử nghiệm như sandbox còn thiếu hướng dẫn cụ thể. Đáng chú ý, phần lớn các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, có năng lực hấp thụ công nghệ và đổi mới còn yếu, thiếu văn hóa đổi mới sáng tạo.

PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Sáng tạo (Trường Đại học Ngoại thương), nhận định đổi mới sáng tạo và chuyển giao công nghệ là yếu tố sống còn trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu. Việt Nam đã đạt được những tiến bộ nhất định như tăng hạng trên bảng xếp hạng GII, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp và thu hút doanh nghiệp công nghệ quốc tế. Tuy nhiên, mức đầu tư cho R&D còn thấp, chỉ chiếm khoảng 0,42% GDP, thấp hơn nhiều so với các quốc gia phát triển. Các doanh nghiệp trong nước chưa nhận thức đúng vai trò chiến lược của R&D, dẫn đến đầu tư dàn trải và thiếu chiều sâu. Thiếu hụt nhân lực công nghệ cao, kỹ năng thực hành và ngoại ngữ yếu, cùng với những thách thức trong giáo dục STEM là những vấn đề cần giải quyết. Khung chính sách hỗ trợ đổi mới còn bất cập, thủ tục hành chính rườm rà, cơ chế bảo hộ sở hữu trí tuệ chưa hiệu quả, làm giảm động lực đổi mới của doanh nghiệp. Chuyển giao công nghệ còn mang tính cục bộ, thiếu liên kết giữa viện nghiên cứu và doanh nghiệp, thẩm định công nghệ còn yếu.

TS. Dương Thị Kim Liên, Viện trưởng Viện Hỗ trợ đổi mới sáng tạo doanh nghiệp, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tạo ra những đột phá chiến lược, trong đó nâng cao năng suất lao động và đổi mới mô hình tăng trưởng là hai trọng tâm cốt lõi, để hiện thực hóa khát vọng trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045. Theo số liệu của Cục Thống kê (Bộ Tài chính), năng suất lao động của Việt Nam năm 2023 đạt khoảng 199,3 triệu đồng/lao động, tương đương 8.380 USD/người/năm. So sánh với các quốc gia khác, năng suất lao động của Singapore cao hơn 10 lần; Hàn Quốc cao hơn 9,4 lần; Trung Quốc cao hơn 3 lần; và Thái Lan cao hơn gần 2 lần. Khoảng cách năng suất này phản ánh những hạn chế về năng lực công nghệ, kỹ năng lao động và hiệu quả quản trị tại các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân.

CẦN CẢI CÁCH TOÀN DIỆN THỂ CHẾ

Dẫn số liệu từ Báo cáo Chuyển đổi số doanh nghiệp Việt Nam 2023, TS. Dương Thị Kim Liên cho biết chỉ khoảng 15% doanh nghiệp nhỏ và vừa triển khai các ứng dụng số cơ bản như phần mềm kế toán, hóa đơn điện tử, thương mại điện tử; chưa đến 3% có kế hoạch đầu tư bài bản vào trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn hoặc sản xuất thông minh. Ứng dụng AI và công nghệ chiến lược không còn là lựa chọn mà là yêu cầu bắt buộc để Việt Nam thu hẹp khoảng cách năng suất, nâng cao giá trị gia tăng và cạnh tranh ở tầm khu vực và toàn cầu.

PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà cho rằng để thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển giao công nghệ, Việt Nam cần cải cách toàn diện thể chế, đồng bộ hóa pháp luật, đơn giản hóa thủ tục, thúc đẩy cơ chế thí điểm và chấp nhận rủi ro trong đổi mới. Cần rà soát, sửa đổi pháp luật, thúc đẩy cơ chế thí điểm, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và phân bổ nguồn lực tập trung. Cần triển khai chiến lược phát triển nhân lực chất lượng cao, đổi mới giáo dục STEM, thu hút và trọng dụng nhân tài trong các lĩnh vực công nghệ cao. Nâng cao năng lực doanh nghiệp, thúc đẩy đầu tư mạnh cho R&D, xây dựng văn hóa đổi mới và phát triển hệ sinh thái liên kết ba nhà: Nhà nước – doanh nghiệp – nhà trường. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tăng cường hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ với các quốc gia phát triển, nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ. Doanh nghiệp cần nhận thức R&D là đầu tư chiến lược, chủ động dành nguồn lực cải tiến sản phẩm và quy trình. Tích cực tiếp nhận công nghệ qua nhiều kênh, đầu tư đào tạo nâng cao năng lực công nghệ nội bộ.

TS. Nguyễn Thị Thu Hiền, Chủ tịch Viện Kinh tế và Pháp luật Quốc tế, nhấn mạnh cơ chế tài chính công cho khoa học, công nghệ còn thiếu linh hoạt và chấp nhận rủi ro thấp. Vấn đề sở hữu nhà nước đối với kết quả nghiên cứu sử dụng ngân sách gây khó khăn trong định giá và chia sẻ lợi nhuận, làm giảm động lực của nhà khoa học và gây ra khoảng trống vốn cho các dự án công nghệ sâu ở giai đoạn đầu. Các quy trình phân bổ, giám sát và kiểm soát ngân sách quá chặt chẽ khiến hoạt động nghiên cứu cơ bản vốn có độ rủi ro cao bị hạn chế. Bà Hiền đề xuất cần nâng cao hiệu quả chi tiêu công thông qua cơ chế khoán chi, tăng cường chấp nhận rủi ro có kiểm soát và cải cách các quỹ phát triển khoa học, công nghệ và chính sách tín dụng ưu đãi. Cần huy động vốn tư nhân và các nguồn lực thay thế như quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ thiên thần, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư R&D và khai thác mô hình gọi vốn cộng đồng. Thúc đẩy thương mại hóa bằng cải cách quyền sở hữu trí tuệ, phát triển hệ sinh thái định giá và chuyển giao công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học, công nghệ và tăng cường hợp tác công – tư.

TS. Dương Thị Kim Liên đề xuất các địa phương cần nhanh chóng rà soát, công khai kế hoạch hỗ trợ, minh bạch cơ chế lựa chọn doanh nghiệp thụ hưởng, bảo đảm chính sách đến đúng nơi, đúng đối tượng. Cần hỗ trợ các doanh nghiệp công nghệ lớn để trở thành mô hình thí điểm, lan tỏa hiệu quả cho chuỗi doanh nghiệp vệ tinh, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Phát triển hệ sinh thái công nghệ tại địa phương, tăng cường vai trò của các trung tâm đổi mới sáng tạo, tổ chức tư vấn, vườn ươm doanh nghiệp và cụm liên kết ngành trong việc đưa công nghệ vào thực tiễn. Để bảo đảm tính minh bạch và hiệu quả trong thực thi chính sách, cần thiết lập cơ chế phản ánh công khai và xử lý nghiêm những đơn vị trì trệ, gây cản trở cho hoạt động đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ tại doanh nghiệp.

TS. Dương Thị Kim Liên kết luận: “Nếu không hành động quyết liệt hôm nay, chúng ta sẽ tụt lại phía sau. Nhưng nếu cùng nhau thực hiện, thì một Việt Nam tự cường, sáng tạo, năng suất cao và thu nhập cao vào năm 2045 là hoàn toàn khả thi”.

Nguồn: Vneconomy 11:43 02/06/2025 Song Hà


Source: VNECONOMY
This article has been adapted from its original source.