
Chuyển đổi số thúc đẩy tự chủ và nâng cao vị thế ngành công nghiệp Việt Nam, tăng cường năng lực cạnh tranh toàn cầu.
Tại hội thảo “Tăng tốc Chuyển đổi, Hiệp lực Thúc đẩy Phát triển Nền Công nghiệp Việt Nam Tự chủ - Hùng cường,” ông Chu Việt Cường, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ Phát triển Công nghiệp, Cục Công nghiệp, Bộ Công Thương, nhấn mạnh bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và áp lực gia tăng trong việc hội nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu đang thúc đẩy một giai đoạn chuyển đổi quan trọng cho ngành công nghiệp Việt Nam. Chiến lược phát triển công nghiệp đến năm 2030, tầm nhìn 2045 xác định năng lực tự chủ sản xuất và khả năng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu là yếu tố then chốt để Việt Nam chuyển mình từ gia công đơn thuần sang trung tâm sản xuất công nghệ cao khu vực.
Tuy nhiên, ông Cường thẳng thắn chỉ ra những thách thức tồn tại, bao gồm sự phân tán và thiếu tính hệ thống trong năng lực sản xuất nội địa; tỷ lệ nội địa hóa thấp ở nhiều ngành; sự phụ thuộc vào nhập khẩu máy móc, nguyên vật liệu; khó khăn trong việc tiếp cận công nghệ nguồn và liên kết với các doanh nghiệp FDI lớn; và thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao cùng hệ thống đào tạo chuyên ngành phù hợp.
Tỷ lệ Nội địa hóa Thấp và Sự Phụ thuộc Nhập khẩu
TS. Lương Minh Huân, Viện trưởng Viện Phát triển Doanh nghiệp, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), khẳng định một nền công nghiệp tự chủ cần xây dựng chuỗi cung ứng nội địa vững chắc, tạo tiền đề cho việc tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Điều này không chỉ giảm sự phụ thuộc vào bên ngoài mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam từng bước làm chủ công nghệ, thị trường và gia tăng giá trị gia tăng. Mặc dù Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích, tỷ lệ nội địa hóa vẫn còn hạn chế ở nhiều lĩnh vực.
Điển hình, ngành điện tử, mặc dù có giá trị xuất khẩu lớn, chỉ đạt tỷ lệ nội địa hóa khoảng 15%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu 45% vào năm 2020. Ông Huân chỉ rõ nhiều doanh nghiệp trong nước chủ yếu tham gia vào các công đoạn lắp ráp, gia công đơn giản và phụ thuộc lớn vào linh kiện, nguyên vật liệu nhập khẩu. Các số liệu nội địa hóa hiện tại thường bao gồm cả đóng góp của các doanh nghiệp FDI, không phản ánh chính xác năng lực làm chủ công nghệ, thiết kế và cung ứng vật tư đầu vào của các doanh nghiệp nội địa.
Bà Đỗ Thị Thúy Hương, Hiệp hội Doanh nghiệp Điện tử Việt Nam, nhận định Việt Nam đang trở thành điểm đến hấp dẫn trong chuỗi cung ứng bán dẫn, thu hút các tập đoàn lớn như Intel, Samsung, Qualcomm và Amkor nhờ chi phí lao động cạnh tranh, môi trường chính trị-xã hội ổn định và mạng lưới Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) rộng khắp. Việt Nam hiện tập trung vào lắp ráp, đóng gói và kiểm thử, và đang có xu hướng chuyển dịch sang thiết kế vi mạch, một lĩnh vực có giá trị gia tăng cao. Tuy nhiên, thách thức lớn là Việt Nam chưa có nhà máy chế tạo chip (fab) đạt chuẩn quốc tế, hạ tầng sản xuất còn hạn chế, thiếu các yếu tố như nhà máy chế tạo, phòng sạch, phòng thí nghiệm R&D chuyên sâu và hệ thống kiểm định chất lượng. Xếp hạng 71/132 về hạ tầng cho thấy khoảng cách lớn so với yêu cầu thực tế của ngành. Hiện tại, các doanh nghiệp chủ yếu phục vụ FDI, trong khi các doanh nghiệp nội địa, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, gặp khó khăn trong việc tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.
Tập trung Phát triển Các Doanh nghiệp Trụ cột
PGS.TS. Lê Kỳ Nam, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Cơ khí Việt Nam (VAMI), nhấn mạnh vai trò nền tảng của ngành cơ khí trong việc chế tạo công cụ, thiết bị, góp phần tăng năng suất, tự động hóa và phát triển công nghệ cao. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, vẫn đối mặt với những thách thức về năng suất, năng lực sản xuất và công nghệ.
Ông Nam chỉ rõ hơn 70% thiết bị máy móc trong ngành cơ khí vẫn phải nhập khẩu. Công nghệ còn lạc hậu, sản xuất chủ yếu là lắp ráp, thiếu khả năng làm chủ thiết kế, mã nguồn và vật liệu đầu vào. Giá thành sản phẩm cơ khí của Việt Nam cao gấp đôi so với Thái Lan mặc dù chất lượng tương đương. Bên cạnh đó, ngành này thiếu vốn, nhân lực chất lượng cao, công nghệ lỗi thời và chưa tối ưu hóa sản xuất. Sự kết nối giữa các doanh nghiệp trong ngành còn hạn chế, dẫn đến việc chưa tận dụng được năng lực nội tại. Thiếu các tiêu chuẩn và chương trình đào tạo phù hợp với xu hướng sản xuất mới. Sự phụ thuộc vào đối tác nước ngoài trong thiết kế và công nghệ lõi là một vấn đề đáng lo ngại.
Ông Cường đề xuất tập trung vào ba yếu tố cốt lõi để nâng cao nội lực ngành công nghiệp: đổi mới công nghệ và sáng tạo; tăng cường liên kết ngành; và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Ông Huân đánh giá cao Nghị quyết 68-NQ/TW, đặt mục tiêu rõ ràng về phát triển doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và tăng năng lực làm chủ công nghệ trong nước. Theo lộ trình, Việt Nam phấn đấu có một số doanh nghiệp lớn đủ năng lực làm chủ chuỗi sản xuất trong nước vào năm 2025 và ít nhất 20 doanh nghiệp đủ sức tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu với vai trò trung tâm vào năm 2030. Để đạt được mục tiêu này, ông Huân kiến nghị tiếp tục thực thi mạnh mẽ và hiệu quả các chính sách hỗ trợ tín dụng, đào tạo nhân lực và nâng cao năng suất chất lượng, đặc biệt là đưa chính sách đến đúng doanh nghiệp cần, đúng thời điểm và đúng nhu cầu. Cụ thể, cần tập trung vào phát triển các doanh nghiệp trụ cột trong ngành và hỗ trợ hệ sinh thái vệ tinh xung quanh họ. Đồng thời, cần thúc đẩy chia sẻ thông tin, công cụ và nền tảng số hóa quản trị, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Bên cạnh đó, cần tăng cường hợp tác giữa các địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp đầu ngành để khắc phục “rào cản văn hóa” hiện tại, đó là thiếu kết nối giữa các doanh nghiệp cùng khu vực, dù có năng lực bổ trợ lẫn nhau.
Bà Hương đề xuất nâng cấp hạ tầng tại TP.HCM, Hòa Lạc và Đà Nẵng với hệ thống phòng sạch, trung tâm kiểm định và nguồn điện ổn định; thúc đẩy hợp tác công-tư (PPP); và huy động vốn xây dựng fab quy mô nhỏ phục vụ R&D và sản xuất chip chuyên dụng. Thúc đẩy chuyển giao công nghệ, phối hợp với các hiệp hội quốc tế như Hiệp hội Công nghiệp Bán dẫn (SIA) và Hiệp hội Thương mại Toàn cầu cho ngành Công nghiệp Bán dẫn và các ngành Công nghiệp Liên quan (SEMI), xây dựng phòng lab đạt chuẩn quốc tế. Đồng thời, phát triển hệ thống tiêu chuẩn quốc gia, xây dựng quy chuẩn tiêu chuẩn Việt Nam cho ngành bán dẫn và trung tâm kiểm nghiệm đạt chuẩn để đảm bảo sản phẩm có chất lượng quốc tế.
Theo ông Nam, để ngành cơ khí hùng cường và tự chủ, cần đẩy mạnh đào tạo và nâng cao năng lực kỹ thuật, từ cơ bản đến chuyên sâu; thay đổi tư duy và mô hình đào tạo. Ông dẫn chứng kinh nghiệm của Nga khi mất 15 năm để chuyển đổi sang thiết kế số, loại bỏ hoàn toàn bản vẽ giấy trong thiết kế kỹ thuật, trong khi Việt Nam vẫn giảng dạy và áp dụng TCVN kỹ thuật 2D, chưa cập nhật phương pháp thiết kế số hóa (3D, tích hợp sai số, thiết kế ngược…). Cần cập nhật tiêu chuẩn thiết kế và sản xuất, phù hợp với số hóa và chuyển đổi số trong công nghiệp. Tăng cường đầu tư vào R&D, chủ động vật liệu đầu vào. Khuyến khích hình thành các chuỗi liên kết ngành, giữa doanh nghiệp dân sự-quốc phòng-đầu chuỗi và phụ trợ. Tập trung hỗ trợ doanh nghiệp cơ khí thích nghi với các tiêu chuẩn mới: ISO, Carbon Footprint và chuyển đổi xanh.
Source: VNECONOMY
This article has been adapted from its original source.